Triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại các tổ chức dịch vụ kỹ thuật công trong lĩnh vực tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng
Số trang: 15
Loại file: pdf
Dung lượng: 245.64 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết này nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề TCTCTN; phân tích những thành công và chưa thành công, những thuận lợi, khó khăn trong quá trình chuyển đổi và từ đó đề xuất một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển đổi của các tổ chức dịch vụ kỹ thuật công (DVKTC) trong lĩnh vực Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng (TĐC) sang cơ chế TCTCTN theo tinh thần của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ (NĐ 115).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại các tổ chức dịch vụ kỹ thuật công trong lĩnh vực tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng JSTPM Tập 4, Số 1, 2015 55 TRIỂN KHAI CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM TẠI CÁC TỔ CHỨC DỊCH VỤ KỸ THUẬT CÔNG TRONG LĨNH VỰC TIÊU CHUẨN - ĐO LƯỜNG - CHẤT LƯỢNG ThS. Nguyễn Vũ1 Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 1, Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng, Bộ KH&CN Tóm tắt: Từ năm 2005 đến nay, tổ chức dịch vụ kỹ thuật công trong lĩnh vực Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng (là một loại hình tổ chức khoa học và công nghệ - KH&CN) được chuyển sang hoạt động theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ quy định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm (TCTCTN) của tổ chức KH&CN công lập. Việc chuyển đổi đã được thực hiện thành công ở một số đơn vị trung ương nhưng chưa thực sự thành công ở các đơn vị địa phương. Nghiên cứu này nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề TCTCTN; phân tích những thành công và chưa thành công, những thuận lợi, khó khăn trong quá trình chuyển đổi và từ đó đề xuất một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển đổi của các tổ chức dịch vụ kỹ thuật công (DVKTC) trong lĩnh vực Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng (TĐC) sang cơ chế TCTCTN theo tinh thần của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ (NĐ 115). Từ khóa: Dịch vụ kỹ thuật công; Tự chủ tự chịu trách nhiệm; Tổ chức KH&CN; Tiêu chuẩn; Đo lường; Chất lượng. Mã số: 15030101 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI VỀ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM CỦA TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CÔNG LẬP 1. Cơ sở lý luận về tự chủ, tự chịu trách nhiệm 1.1. Tự chủ Theo từ điển tiếng Việt, tự chủ là tự điều hành, quản lý mọi công việc của mình, không bị ai chi phối. Theo Wikipedia, tự chủ/tự trị (autonomy) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là autonomos, trong đó, auto là “tự mình”, còn nomos là “luật”, nghĩa là việc “tự mình làm luật lệ”. Theo từ điển Oxford, tự chủ/tự trị là quyền hoặc điều kiện tự quản, được tự do quyết định không chịu sự kiểm soát hoặc ảnh hưởng từ bên ngoài. Theo Berdahl (1990), có 2 1 Liên hệ tác giả: nguyenvuspt@gmail.com 56 Triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm… loại tự chủ là tự chủ thực chất (substantial autonomy) và tự chủ về quy trình (procedure autonomy): - Tự chủ thực chất là tự chủ toàn quyền từ khâu tự định đoạt các hướng nghiên cứu, hoạt động, các dịch vụ KH&CN, không có sự can thiệp của các cấp quản lý trong việc phân bổ, bố trí nguồn lực. Hoạt động của tổ chức này chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật có liên quan và các cơ quan giám sát… Tự chủ thực chất thường có ở tổ chức tư nhân, nơi mà quyền sở hữu thuộc về một cá nhân hay một nhóm người và họ có toàn quyền quyết định phương thức hoạt động và điều hành tổ chức của mình (tổ chức KH&CN tư nhân, doanh nghiệp). Ở các tổ chức còn có một phần bị chi phối bởi các hệ quản lý cấp hành chính thì không có tự chủ thực sự (100%) mà chỉ có bán tự chủ.. Trường hợp tự chủ này thường thấy ở các tổ chức sự nghiệp, trong đó có tổ chức KH&CN công lập; - Tự chủ về quy trình nghĩa là tự điều hành từ khâu điều hành kế hoạch hoạt động đến khâu tài chính, nhân lực và đánh giá tổ chức, không tự chủ việc ra các quyết định. Như vậy tự chủ là tự mình được đưa ra các quyết định liên quan đến công việc mà không cần xin phép hoặc chủ yếu là không phải xin phép ai. Thực hiện tự chủ là một sự chia sẻ quyền lực, giao quyền cho cấp dưới nhiều hơn, giảm bớt sự tập trung hóa, hành chính hóa, giảm sự can thiệp vào công việc của tổ chức. Nguyên tắc tự chủ là cho phép tự do cần thiết, không có sự can thiệp của bên ngoài, trong việc sắp xếp tổ chức và điều hành nội bộ cũng như phân bổ trong nội bộ nguồn tài chính, tuyển dụng nhân lực và bố trí điều kiện làm việc, xác định nhiệm vụ chuyên môn, tự quyết định các mục tiêu... Đối với các tổ chức KH&CN công lập, các nước phát triển người ta quan tâm đến tự chủ rất sớm vì nó phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN (tự do, sáng tạo). Các mặt tự chủ ở đây chủ yếu là các tự chủ về xác định nhiệm vụ, kế hoạch chuyên môn; tự chủ về tài chính; tự chủ về nhân lực; tự chủ về sử dụng kết quả nghiên cứu. Tùy theo tình hình phát triển năng lực của tổ chức KH&CN, nhu cầu thị trường về các sản phẩm của tổ chức KH&CN cũng như quan điểm, chính sách của Nhà nước mà người ta giao quyền tự chủ cho tổ chức KH&CN với các mức độ khác nhau (tự chủ hoàn toàn hoặc tự chủ một phần). 1.2. Tự chịu trách nhiệm Bên cạnh việc giao quyền mạnh, các cơ quan quản lý Nhà nước đòi hỏi các tổ chức phải có trách nhiệm với quyền đã được giao. Đó là trách nhiệm giải trình trước Nhà nước về việc sử dụng có hiệu quả các cơ sở vật chất kỹ thuật, các nguồn lực mà Nhà nước đã giao cho đơn vị quản lý, sử dụng [1]. JSTPM Tập 4, Số 1, 2015 57 Các nước thường niên đều tiến hành đánh giá công khai hoạt động của tổ chức KH&CN để qua đó các tổ chức KH&CN giải trình về trách nhiệm sử dụng các nguồn lực và kết quả đạt được của tổ chức KH&CN theo mức độ TCTCTN được giao. 2. Kinh nghiệm, thực tiễn về thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập 2.1. Kinh nghiệm chung về tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập Các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và triển khai của Đức (FhG), Phần Lan (TEKES), Hà Lan (TNO) [6] từ lâu đã áp dụng chế độ tự trị trong hoạt động KH&CN. Cụ thể, các tổ chức KH&CN: - Có quyền tự trị trong xác định nhiệm vụ KH&CN, phương hướng phát triển khoa học. Theo đó, các tổ chức KH&CN hoạt động theo nguyên tắc tự xác định, tìm kiếm các nhiệm vụ KH&CN (từ nhà nước, từ xã hội, từ sản xuất, từ hợp tác quốc tế) theo chức năng được giao; - Tự chủ về tài chính (toàn phần hoặc một phần) kinh phí hoạt động thường xuyên. Trong đó, phần ngân sách nhà nước cấp cho tổ chức KH&CN được thực hiện theo đơn đặt hàng hoặc theo nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng do tổ chức KH&CN tự xác định và được đơn vị có thẩm quyền phê duyệt, cấp kinh phí. Đối với phần kinh phí tự chủ, tổ chức KH&CN thực hiện ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại các tổ chức dịch vụ kỹ thuật công trong lĩnh vực tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng JSTPM Tập 4, Số 1, 2015 55 TRIỂN KHAI CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM TẠI CÁC TỔ CHỨC DỊCH VỤ KỸ THUẬT CÔNG TRONG LĨNH VỰC TIÊU CHUẨN - ĐO LƯỜNG - CHẤT LƯỢNG ThS. Nguyễn Vũ1 Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 1, Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng, Bộ KH&CN Tóm tắt: Từ năm 2005 đến nay, tổ chức dịch vụ kỹ thuật công trong lĩnh vực Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng (là một loại hình tổ chức khoa học và công nghệ - KH&CN) được chuyển sang hoạt động theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ quy định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm (TCTCTN) của tổ chức KH&CN công lập. Việc chuyển đổi đã được thực hiện thành công ở một số đơn vị trung ương nhưng chưa thực sự thành công ở các đơn vị địa phương. Nghiên cứu này nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề TCTCTN; phân tích những thành công và chưa thành công, những thuận lợi, khó khăn trong quá trình chuyển đổi và từ đó đề xuất một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển đổi của các tổ chức dịch vụ kỹ thuật công (DVKTC) trong lĩnh vực Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng (TĐC) sang cơ chế TCTCTN theo tinh thần của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ (NĐ 115). Từ khóa: Dịch vụ kỹ thuật công; Tự chủ tự chịu trách nhiệm; Tổ chức KH&CN; Tiêu chuẩn; Đo lường; Chất lượng. Mã số: 15030101 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI VỀ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM CỦA TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CÔNG LẬP 1. Cơ sở lý luận về tự chủ, tự chịu trách nhiệm 1.1. Tự chủ Theo từ điển tiếng Việt, tự chủ là tự điều hành, quản lý mọi công việc của mình, không bị ai chi phối. Theo Wikipedia, tự chủ/tự trị (autonomy) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là autonomos, trong đó, auto là “tự mình”, còn nomos là “luật”, nghĩa là việc “tự mình làm luật lệ”. Theo từ điển Oxford, tự chủ/tự trị là quyền hoặc điều kiện tự quản, được tự do quyết định không chịu sự kiểm soát hoặc ảnh hưởng từ bên ngoài. Theo Berdahl (1990), có 2 1 Liên hệ tác giả: nguyenvuspt@gmail.com 56 Triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm… loại tự chủ là tự chủ thực chất (substantial autonomy) và tự chủ về quy trình (procedure autonomy): - Tự chủ thực chất là tự chủ toàn quyền từ khâu tự định đoạt các hướng nghiên cứu, hoạt động, các dịch vụ KH&CN, không có sự can thiệp của các cấp quản lý trong việc phân bổ, bố trí nguồn lực. Hoạt động của tổ chức này chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật có liên quan và các cơ quan giám sát… Tự chủ thực chất thường có ở tổ chức tư nhân, nơi mà quyền sở hữu thuộc về một cá nhân hay một nhóm người và họ có toàn quyền quyết định phương thức hoạt động và điều hành tổ chức của mình (tổ chức KH&CN tư nhân, doanh nghiệp). Ở các tổ chức còn có một phần bị chi phối bởi các hệ quản lý cấp hành chính thì không có tự chủ thực sự (100%) mà chỉ có bán tự chủ.. Trường hợp tự chủ này thường thấy ở các tổ chức sự nghiệp, trong đó có tổ chức KH&CN công lập; - Tự chủ về quy trình nghĩa là tự điều hành từ khâu điều hành kế hoạch hoạt động đến khâu tài chính, nhân lực và đánh giá tổ chức, không tự chủ việc ra các quyết định. Như vậy tự chủ là tự mình được đưa ra các quyết định liên quan đến công việc mà không cần xin phép hoặc chủ yếu là không phải xin phép ai. Thực hiện tự chủ là một sự chia sẻ quyền lực, giao quyền cho cấp dưới nhiều hơn, giảm bớt sự tập trung hóa, hành chính hóa, giảm sự can thiệp vào công việc của tổ chức. Nguyên tắc tự chủ là cho phép tự do cần thiết, không có sự can thiệp của bên ngoài, trong việc sắp xếp tổ chức và điều hành nội bộ cũng như phân bổ trong nội bộ nguồn tài chính, tuyển dụng nhân lực và bố trí điều kiện làm việc, xác định nhiệm vụ chuyên môn, tự quyết định các mục tiêu... Đối với các tổ chức KH&CN công lập, các nước phát triển người ta quan tâm đến tự chủ rất sớm vì nó phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN (tự do, sáng tạo). Các mặt tự chủ ở đây chủ yếu là các tự chủ về xác định nhiệm vụ, kế hoạch chuyên môn; tự chủ về tài chính; tự chủ về nhân lực; tự chủ về sử dụng kết quả nghiên cứu. Tùy theo tình hình phát triển năng lực của tổ chức KH&CN, nhu cầu thị trường về các sản phẩm của tổ chức KH&CN cũng như quan điểm, chính sách của Nhà nước mà người ta giao quyền tự chủ cho tổ chức KH&CN với các mức độ khác nhau (tự chủ hoàn toàn hoặc tự chủ một phần). 1.2. Tự chịu trách nhiệm Bên cạnh việc giao quyền mạnh, các cơ quan quản lý Nhà nước đòi hỏi các tổ chức phải có trách nhiệm với quyền đã được giao. Đó là trách nhiệm giải trình trước Nhà nước về việc sử dụng có hiệu quả các cơ sở vật chất kỹ thuật, các nguồn lực mà Nhà nước đã giao cho đơn vị quản lý, sử dụng [1]. JSTPM Tập 4, Số 1, 2015 57 Các nước thường niên đều tiến hành đánh giá công khai hoạt động của tổ chức KH&CN để qua đó các tổ chức KH&CN giải trình về trách nhiệm sử dụng các nguồn lực và kết quả đạt được của tổ chức KH&CN theo mức độ TCTCTN được giao. 2. Kinh nghiệm, thực tiễn về thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập 2.1. Kinh nghiệm chung về tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập Các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và triển khai của Đức (FhG), Phần Lan (TEKES), Hà Lan (TNO) [6] từ lâu đã áp dụng chế độ tự trị trong hoạt động KH&CN. Cụ thể, các tổ chức KH&CN: - Có quyền tự trị trong xác định nhiệm vụ KH&CN, phương hướng phát triển khoa học. Theo đó, các tổ chức KH&CN hoạt động theo nguyên tắc tự xác định, tìm kiếm các nhiệm vụ KH&CN (từ nhà nước, từ xã hội, từ sản xuất, từ hợp tác quốc tế) theo chức năng được giao; - Tự chủ về tài chính (toàn phần hoặc một phần) kinh phí hoạt động thường xuyên. Trong đó, phần ngân sách nhà nước cấp cho tổ chức KH&CN được thực hiện theo đơn đặt hàng hoặc theo nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng do tổ chức KH&CN tự xác định và được đơn vị có thẩm quyền phê duyệt, cấp kinh phí. Đối với phần kinh phí tự chủ, tổ chức KH&CN thực hiện ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí khoa học Tạp chí Công nghệ Quản lý công nghệ Dịch vụ kỹ thuật công Tự chủ tự chịu trách nhiệm Triển khai cơ chế tự chủGợi ý tài liệu liên quan:
-
6 trang 295 0 0
-
Thống kê tiền tệ theo tiêu chuẩn quốc tế và thực trạng thống kê tiền tệ tại Việt Nam
7 trang 270 0 0 -
5 trang 233 0 0
-
10 trang 211 0 0
-
Quản lý tài sản cố định trong doanh nghiệp
7 trang 208 0 0 -
6 trang 205 0 0
-
8 trang 204 0 0
-
Khảo sát, đánh giá một số thuật toán xử lý tương tranh cập nhật dữ liệu trong các hệ phân tán
7 trang 202 0 0 -
Khách hàng và những vấn đề đặt ra trong câu chuyện số hóa doanh nghiệp
12 trang 200 0 0 -
9 trang 167 0 0