Triển Vọng của các Nghiên Cứu về Tế Bào Gốc
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 104.61 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Triển Vọng của các Nghiên Cứu về Tế Bào GốcCác thành tựu của kỹ thuật sinh học trong những năm 90 là động cơ thúc đẩy các nghiên cứu về tế bào gốc để tìm hiểu về cơ chế gây bệnh cũng như sử dụng tế bào gốc vào việc điều trị những bệnh mà đến nay vẫn còn là nan y. Vấn đề này đã gây sôi nổi trong dư luận vì cho thấy nhiều hứa hẹn đồng thời cũng gây tranh cãi vì đụng chạm tới những nguyên lý cơ bản về sự sống và quyền con người....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Triển Vọng của các Nghiên Cứu về Tế Bào Gốc Triển Vọng của các Nghiên Cứu về Tế Bào Gốc Các thành tựu của kỹ thuật sinh học trong những năm 90 là động cơthúc đẩy các nghiên cứu về tế bào gốc để tìm hiểu về cơ chế gây bệnh cũngnhư sử dụng tế bào gốc vào việc điều trị những bệnh mà đến nay vẫn còn lànan y. Vấn đề này đã gây sôi nổi trong dư luận vì cho thấy nhiều hứa hẹnđồng thời cũng gây tranh cãi vì đụng chạm tới những nguyên lý cơ bản về sựsống và quyền con người. Tế bào là đơn vị nhỏ nhất tạo nên cơ thể. Nếu ta so sánh cơ thể nhưmột tòa lâu đài thì tế bào là những viên gạch xây dựng nên lâu đài đó. Cũnggiống như lâu đài có nhiều cấu trúc, mỗi cấu trúc lại cần một lọai gạch, đáhoặc vật liệu riêng, mỗi bộ phận của cơ thể cũng do một lọai tế bào riêng tạothành thí dụ tế bào bắp thịt, tế bào thần kinh, các tế bào trong máu.. Khácvới viên gạch vốn chỉ là vật chất bất động, tế bào có cấu trúc tinh vi, tạo nênmột người sống, suy nghĩ, họat động và có khả năng sáng tạo. Tế bào lànhững túi nhỏ phải dùng kính hiển vi mới thấy được, có màng bao bọc, chứamột chất mà cấu trúc và sự họat động thay đổi theo từng lọai thí dụ tế bàogan họat động như một nhà máy hóa học, tế bào bắp thịt có tính co dãn...Nhân tế bào chứa các tín hiệu di truyền điều khiển các họat động của tế bào.Các tín hiệu di truyền ở trong các sợi nhiễm sắc thể. Tế bào thường có 46 nhiễm sắc thể, tế bào sinh dục có 23 nhiễm sắcthể. Khi trứng tức là tế bào sinh dục của phụ nữ thụ tinh nghĩa là kết hợp vớitế bào sinh dục nam, hai nhóm nhiễm sắc thể hợp lại khiến cho trứng thụtinh có 46 nhiễm sắc thể. Trứng thụ tinh nhân đôi nhanh chóng, tạo ra 2, 4, 8, 16, 32…tế bào,tạo thành “túi phôi”. Túi phôi là một hình cầu rỗng gồm một lọai tế bào ngoài sẽ trở thành“lá nuôi” là tiền thân của nhau thai, lớp tế bào trong của túi phôi là tế bàogốc sẽ phát triển thành bào thai. Các tế bào gốc tiếp tuc nhân đôi và chuyên biệt hóa để tạo ra hơn 200loại tế bào khác nhau và được tổ chức thành các bộ phận như tim, phổi, hệthần kinh, bắp thịt… Vậy tế bào gốc là tế bào nguyên thủy, mang đầy đủ tín hịệu di truyềncủa một người, có khả năng sinh sản không hạn chế đồng thời có khả năngchuyên biệt hóa tạo ra các bộ phận cần cho sự sống. Cấy và nuôi dưỡng tếbào gốc tạo ra các dòng tế bào có khả năng sinh sản vô hạn dùng cho việcnghiên cứu. Ngoài tế bào gốc phôi có tính đa năng nghĩa là có thể chuyển biếnthành tất cả các lọai tế bào, sau này người ta tìm thấy tế bào gốc cơ thể ởtrong máu cuống rốn, nhau thai và ở trong các bộ phận thí dụ tủy xương (cónhiệm vụ tạo ra máu), gan, bắp thịt, hệ thần kinh… Các tế bào gốc cơ thể không có tính đa năng như tế bào gốc phôi màchỉ có thể chuyển biến thành tế bào của bộ phận liên hệ. Người ta hy vọngcó thể chuyển các tế bào gốc cơ thể ngược trở lại thành các tế bào gốc đanăng hoặc từ một lọai tế bào gốc mô này sang tạo ra một lọai mô khác đểtránh phải dùng đến phôi thai. Một nguồn tế bào gốc khác là tế bào gốc từ sự nhân bản vô tính. Trong kỹ thuật này, người ta đặt nhân của một tế bào cơ thể vào mộtcái trứng đã được lấy nhân đi rồi và làm cho trứng được ghép nhân này pháttriển thành một bào thai, tạo ra một sinh vật rập đúng khuôn của sinh vật đãcho cái nhân đó. Năm 1996 Ian Wilmut và cộng sự viên đã làm được concừu Dolly từ nhân bản vô tính, là môt thành công đáng kể về sinh học. Từ chỗ biết đươc các tín hiệu di truyền và theo dõi được sự phát triểncủa sinh vật từ lúc bắt đầu, người ta hy vọng có thể hiểu được cách phát sinhcủa các bệnh di truyền, tìm hiểu về các tín hiệu hóa học mà các tế bào traođổi với nhau trong khi phát triển và chuyên biệt hóa. Từ đó hy vọng có thểthay đổi các tín hiệu di truyền, tìm ra các thuốc tác dụng trên các tín hiệuhóa học. Các nghiên cứu cũng hướng vào việc dùng tế bào gốc để thay thếcác bộ phận bị hư họai như trong những trường hợp bị liệt do chấn thươngcột sống, tổn thương cơ tim do nhồi máu cơ tim, hoặc thay thế các tế bào tiếtinsulin trong bệnh tiểu đường lọai 1, thay thế các tế bào thần kinh trong bệnhParkinson… Các nghiên cứu về tế bào gốc phôi tuy được nói đến nhiều nhưng vẫncòn trong vòng thí nghiệm. Người ta còn thận trọng vì các tế bào gốc phôivới khả năng sinh sản không giới hạn có thể là nguồn gốc của ung thư. Takhông muốn truyền tế bào gốc cho người nếu không biết chắc rằng điều nàykhông gây ra ung thư. Mặt khác các tế bào gốc phôi có tính đa năng nên tacũng không muốn truyền tế bào gốc vào một bộ phận để thấy phát triển ramột lọai tế bào khác với tế bào của bộ phận đó. Cho đến nay ta đã dùng tế bào gốc từ tủy xương để điều trị thành côngcác trường hợp suy tủy sau khi điều trị bằng hóa chất hoặc tia X vì các bệnhác tính. Một tế bào gốc đơn độc có thể tái lập lại cả hệ thống tủy để làm ra ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Triển Vọng của các Nghiên Cứu về Tế Bào Gốc Triển Vọng của các Nghiên Cứu về Tế Bào Gốc Các thành tựu của kỹ thuật sinh học trong những năm 90 là động cơthúc đẩy các nghiên cứu về tế bào gốc để tìm hiểu về cơ chế gây bệnh cũngnhư sử dụng tế bào gốc vào việc điều trị những bệnh mà đến nay vẫn còn lànan y. Vấn đề này đã gây sôi nổi trong dư luận vì cho thấy nhiều hứa hẹnđồng thời cũng gây tranh cãi vì đụng chạm tới những nguyên lý cơ bản về sựsống và quyền con người. Tế bào là đơn vị nhỏ nhất tạo nên cơ thể. Nếu ta so sánh cơ thể nhưmột tòa lâu đài thì tế bào là những viên gạch xây dựng nên lâu đài đó. Cũnggiống như lâu đài có nhiều cấu trúc, mỗi cấu trúc lại cần một lọai gạch, đáhoặc vật liệu riêng, mỗi bộ phận của cơ thể cũng do một lọai tế bào riêng tạothành thí dụ tế bào bắp thịt, tế bào thần kinh, các tế bào trong máu.. Khácvới viên gạch vốn chỉ là vật chất bất động, tế bào có cấu trúc tinh vi, tạo nênmột người sống, suy nghĩ, họat động và có khả năng sáng tạo. Tế bào lànhững túi nhỏ phải dùng kính hiển vi mới thấy được, có màng bao bọc, chứamột chất mà cấu trúc và sự họat động thay đổi theo từng lọai thí dụ tế bàogan họat động như một nhà máy hóa học, tế bào bắp thịt có tính co dãn...Nhân tế bào chứa các tín hiệu di truyền điều khiển các họat động của tế bào.Các tín hiệu di truyền ở trong các sợi nhiễm sắc thể. Tế bào thường có 46 nhiễm sắc thể, tế bào sinh dục có 23 nhiễm sắcthể. Khi trứng tức là tế bào sinh dục của phụ nữ thụ tinh nghĩa là kết hợp vớitế bào sinh dục nam, hai nhóm nhiễm sắc thể hợp lại khiến cho trứng thụtinh có 46 nhiễm sắc thể. Trứng thụ tinh nhân đôi nhanh chóng, tạo ra 2, 4, 8, 16, 32…tế bào,tạo thành “túi phôi”. Túi phôi là một hình cầu rỗng gồm một lọai tế bào ngoài sẽ trở thành“lá nuôi” là tiền thân của nhau thai, lớp tế bào trong của túi phôi là tế bàogốc sẽ phát triển thành bào thai. Các tế bào gốc tiếp tuc nhân đôi và chuyên biệt hóa để tạo ra hơn 200loại tế bào khác nhau và được tổ chức thành các bộ phận như tim, phổi, hệthần kinh, bắp thịt… Vậy tế bào gốc là tế bào nguyên thủy, mang đầy đủ tín hịệu di truyềncủa một người, có khả năng sinh sản không hạn chế đồng thời có khả năngchuyên biệt hóa tạo ra các bộ phận cần cho sự sống. Cấy và nuôi dưỡng tếbào gốc tạo ra các dòng tế bào có khả năng sinh sản vô hạn dùng cho việcnghiên cứu. Ngoài tế bào gốc phôi có tính đa năng nghĩa là có thể chuyển biếnthành tất cả các lọai tế bào, sau này người ta tìm thấy tế bào gốc cơ thể ởtrong máu cuống rốn, nhau thai và ở trong các bộ phận thí dụ tủy xương (cónhiệm vụ tạo ra máu), gan, bắp thịt, hệ thần kinh… Các tế bào gốc cơ thể không có tính đa năng như tế bào gốc phôi màchỉ có thể chuyển biến thành tế bào của bộ phận liên hệ. Người ta hy vọngcó thể chuyển các tế bào gốc cơ thể ngược trở lại thành các tế bào gốc đanăng hoặc từ một lọai tế bào gốc mô này sang tạo ra một lọai mô khác đểtránh phải dùng đến phôi thai. Một nguồn tế bào gốc khác là tế bào gốc từ sự nhân bản vô tính. Trong kỹ thuật này, người ta đặt nhân của một tế bào cơ thể vào mộtcái trứng đã được lấy nhân đi rồi và làm cho trứng được ghép nhân này pháttriển thành một bào thai, tạo ra một sinh vật rập đúng khuôn của sinh vật đãcho cái nhân đó. Năm 1996 Ian Wilmut và cộng sự viên đã làm được concừu Dolly từ nhân bản vô tính, là môt thành công đáng kể về sinh học. Từ chỗ biết đươc các tín hiệu di truyền và theo dõi được sự phát triểncủa sinh vật từ lúc bắt đầu, người ta hy vọng có thể hiểu được cách phát sinhcủa các bệnh di truyền, tìm hiểu về các tín hiệu hóa học mà các tế bào traođổi với nhau trong khi phát triển và chuyên biệt hóa. Từ đó hy vọng có thểthay đổi các tín hiệu di truyền, tìm ra các thuốc tác dụng trên các tín hiệuhóa học. Các nghiên cứu cũng hướng vào việc dùng tế bào gốc để thay thếcác bộ phận bị hư họai như trong những trường hợp bị liệt do chấn thươngcột sống, tổn thương cơ tim do nhồi máu cơ tim, hoặc thay thế các tế bào tiếtinsulin trong bệnh tiểu đường lọai 1, thay thế các tế bào thần kinh trong bệnhParkinson… Các nghiên cứu về tế bào gốc phôi tuy được nói đến nhiều nhưng vẫncòn trong vòng thí nghiệm. Người ta còn thận trọng vì các tế bào gốc phôivới khả năng sinh sản không giới hạn có thể là nguồn gốc của ung thư. Takhông muốn truyền tế bào gốc cho người nếu không biết chắc rằng điều nàykhông gây ra ung thư. Mặt khác các tế bào gốc phôi có tính đa năng nên tacũng không muốn truyền tế bào gốc vào một bộ phận để thấy phát triển ramột lọai tế bào khác với tế bào của bộ phận đó. Cho đến nay ta đã dùng tế bào gốc từ tủy xương để điều trị thành côngcác trường hợp suy tủy sau khi điều trị bằng hóa chất hoặc tia X vì các bệnhác tính. Một tế bào gốc đơn độc có thể tái lập lại cả hệ thống tủy để làm ra ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
y học phổ thông kiến thức y học bệnh thường gặp lý thuyết y khoa y học cho mọi người dinh dưỡng cơ thểGợi ý tài liệu liên quan:
-
Một số Bệnh Lý Thần Kinh Thường Gặp
7 trang 177 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 166 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 125 0 0 -
4 trang 107 0 0
-
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 107 0 0 -
SINH MẠCH TÁN (Nội ngoại thương biện hoặc luận)
2 trang 79 1 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 76 0 0 -
4 trang 66 0 0
-
2 trang 61 0 0
-
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 50 0 0