Danh mục

Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 2)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 250.79 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đau ở các điểm niệu quản:Ngoài nguyên nhân do cơn đau quặn thân, đau ở các điểm niệu quản còn có thể gặp khi có sỏi niệu quản, viêm niệu quản, lao niệu quản và thường liên quan với các quá trình bệnh lý ở thân và bàng quang.1.1.1.3. Đau ở vùng bàng quang:Đau ở vùng bàng quang thường gặp do sỏi bàng quang, viêm bàng quang, lao bàng quang, bệnh lý của tuyến tiền liệt. Đau ở vùng bàng quang thường kèm theo các rối loạn bài niệu: đái rắt, đái buốt. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 2) Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 2) TS. Hà Hoàng Kiệm (Bệnh học nội khoa HVQY) 1.1.1.2. Đau ở các điểm niệu quản: Ngoài nguyên nhân do cơn đau quặn thân, đau ở các điểm niệu quản còncó thể gặp khi có sỏi niệu quản, viêm niệu quản, lao niệu quản và thường liênquan với các quá trình bệnh lý ở thân và bàng quang. 1.1.1.3. Đau ở vùng bàng quang: Đau ở vùng bàng quang thường gặp do sỏi bàng quang, viêm bàng quang,lao bàng quang, bệnh lý của tuyến tiền liệt. Đau ở vùng bàng quang thườngkèm theo các rối loạn bài niệu: đái rắt, đái buốt. 1.1.1.4. Đau do trào ngược nước tiểu bàng quang-niệu quản: Đây là thể đau đặc biệt, thường gặp ở trẻ em do suy yếu cơ thắt chỗniệu quản đổ vào bàng quang, thường là bẩm sinh. Người bệnh thấy đau vùnghố thắt lưng một hoặc hai bên khi rặn đái, đau mất đi khi đái xong. Cơ chế của cơn đau này là do: khi rặn đái, áp lực trong bàng quangtăng lên do cơ vòng chỗ niệu quản đổ vào bàng quang yếu, nên nước tiểu từbàng quang trào ngược lên niệu quản, làm tăng áp lực bể thân gây nên đau. Đau thường nhẹ, âm ỉ, bệnh nhân chịu đựngđược, nhưng đôi khi đau nhiều làm bệnh nhân không dám rặn đái. Đái xongáp lực trong bàng quang giảm xuống, nước tiểu từ niệu quản xuống bàng quang,bệnh nhân hết đau. Để xác định chẩn đoán, cho chụp X quang bàng quang sau khi bơmthuốc cản quang vào bàng quang (150-200ml) ở các thời điểm trước, trong và saukhi rặn đái. Kết quả sẽ cho thấy thuốc cản quang trào lên niệu quản khi rặn đái. 1.1.2. Rối loạn bài niệu: + Đái dắt: Đái dắt là hiện tượng phải đi đái nhiều lần trong ngày, số lượng nướctiểu mỗi lần ít chỉ vài mililít. Đái dắt có thể do bệnh lý ở bàng quang, tiền liệttuyến, niệu đạo, niệu quản hoặc ở thân gây kích thích mót đái; cũng có thể chỉlà hậu quả của các bệnh lý của các cơ quan lân cận của cơ quan sinh dục nữ. + Đái buốt: Đái buốt là hiện tượng khi đi đái tới cuối bãi, bệnh nhân thấy buốt ởvùng hạ vị lan ra dương vật (ở nam) hoặc bộ phận sinh dục ngoài (ở nữ). Đáibuốt thường đi kèm với đái rắt. Nguyên nhân có thể do viêm bàng quang, laobàng quang, viêm niệu đạo do vi khuẩn hoặc do lậu, sỏi bàng quang. + Đái khó: Đái khó là hiện tượng phải rặn mới đái được, nước tiểu chảy chậmkhông thành tia, có khi đái ngắt quãng. Đái khó chứng tỏ có cản trở ở vùng cổbàng quang như: u vùng cổ bàng quang, u tuyến tiền liệt; hoặc cản trở ở niệu đạonhư: sỏi niệu đạo, chít hẹp niệu đạo do viêm, do chấn thương. + Bí đái: Bí đái là trường hợp không đái được trong khi nước tiểu vẫn được bàitiết từ thân xuống và bị ứ lại ở bàng quang. Phải chú ý phân biệt với vô niệu:vô niệu là không có nước tiểu từ thân xuống bàng quang, không có nước tiểutrong bàng quang nên không có cầu bàng quang và thông đái không có nước tiểu; còn bí đái là nước tiểu bị ứ ở bàng quang nên có cầu bàngquang, thông đái có nhiều nước tiểu và cầu bàng quang xẹp xuống. + Đái không tự chủ: Đái không tự chủ là hiện tượng nước tiểu tự động chảy ra, ngoài ýmuốn của bệnh nhân. Đái không tự chủ có thể do nguyên nhân tại bàng quanghay niệu đạo (như chấn thương vùng bàng quang hay niệu đạo); có thể donguyên nhân từ tuỷ sống (như chấn thương hoặc vết thương gây tổn thương cácđốt tuỷ cùng); cũng có thể do bệnh nhân bị bí đái kéo dài làm thành bàngquang không còn khả năng co dãn, bàng quang trở thành một “bình” chứa nướctiểu trong khi nước tiểu tiếp tục được bài tiết từ thân xuống, do đó nước tiểu từ bàng quang chảy ra theoniệu đạo từng giọt và luôn có cầu bàng quang. + Đái đêm: Đái đêm được coi là bệnh lý khi bệnh nhân phải đi đái nhiều lần trongđêm và kéo dài nhiều tháng. Đái đêm là biểu hiện của giảm khả năng cô đặcnước tiểu của thân. Khi làm nghiệm pháp Zimniski thấy số lượng nước tiểu banđêm nhiều hơn ban ngày. Đái đêm thường gặp trong các bệnh gây giảm khả năng cô đặc nước tiểucủa thân (như viêm thân-bể thân mạn, viêm thân kẽ mạn do thuốc, suy thânmạn...), hoặc ở người già do khả năng cô đặc nước tiểu của thân bị suy giảm.

Tài liệu được xem nhiều: