Danh mục

Truyện Kiều Nguyễn Du - TK Quốc Ngữ

Số trang: 48      Loại file: pdf      Dung lượng: 406.73 KB      Lượt xem: 2      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 5 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tài liệu Truyện Kiều Nguyễn Du giới thiệu tới các bạn những lời thơ trong Truyện Kiều, một tác phẩm nổi tiếng góp phần đưa tên tuổi của Nguyễn Du lên hàng Đại thi hào. Ngoài ra, Truyện Kiều cũng là tác phẩm gắn liền với nét văn hóa của dân tộc ta. Và để hiểu rõ hơn về điều này mời các bạn tham khảo Truyện Kiều của Nguyễn Du sau đây.


Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Truyện Kiều Nguyễn Du - TK Quốc Ngữ TK Quốc Ngữ Nov.24th 2004 Sato TK Quốc Ngữ Nov.24th 2004 Sato Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. Truyện Kiều Thông minh vốn sẵn tính trời, 30 Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm. Nguyễn Du Cung, thương, làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương. Trăm năm, trong cõi người ta, Khúc nhà tay lựa nên chương, Chữ tài, chữ mệnh, khéo là ghét nhau. Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân. Trải qua một cuộc bể dâu, Phong lưu rất mực hồng quần, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng; Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê. Lạ gì bỉ sắc, tư phong, Êm đềm trướng rũ màn che, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Tường đông ong bướm đi về mặc ai. I II Cảo thơm lần giở trước đèn, Ngày xuân con én đưa thoi, Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh. 40 Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Rằng: Năm Gia tĩnh triều Minh, Cỏ non xanh tận chân trời,10 Bốn phương phẳng lặng, hai Kinh vững vàng. Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Có nhà viên ngoại họ Vương, Thanh minh trong tiết tháng ba, Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung. Lễ là Tảo mộ, hội là Đạp thanh. Một trai con thứ rốt lòng, Gần xa nô nức yến anh, Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia. Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. Đầu lòng hai ả tố nga, Dập dìu tài tử giai nhân, Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. Ngựa xe như nước áo quần như nêm. Mai cốt cách, tuyết tinh thần: Ngổn ngang gò đống kéo lên, Một người một vẻ, mười phân vẹn mười. 50 Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay. Vân xem trang trọng khác vời, Tà tà bóng ngả về tây,20 Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Chị em thơ thẩn dan tay ra về. Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang, Bước lần theo ngọn tiểu khê, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh. Kiều càng sắc sảo mặn mà, Nao nao dòng nước uốn quanh, So bề tài sắc, lại là phần hơn. Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Làn thu thủy, nét xuân sơn, Sè sè nắm đất bên đường, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Dàu dàu ngọn cỏ, nửa vàng nửa xanh. Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Rằng: Sao trong tiết Thanh minh, 1 2 TK Quốc Ngữ Nov.24th 2004 Sato TK Quốc Ngữ Nov.24th 2004 Sato60 Mà đây hương khói vắng tanh thế mà? Lâm râm khấn khứa nhỏ to, Vương Quan mới dẫn gần xa: Sụp ngồi, đặt cỏ trước mồ, bước ra. Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi. Một vùng cỏ áy, bóng tà, Nổi danh tài sắc một thì, Gió hiu hiu thổi một và bông lau. Xôn xao ngoài cửa, hiếm gì yến anh. Rút trâm sẵn giắt mái đầu, Phận hồng nhan có mong manh, 100 Vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần. Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương. Lại càng mê mẩn tâm thần, Có người khách ở viễn phương, Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra. Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi. Lại càng ủ dột nét hoa, Thuyền tình vừa ghé đến nơi, Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài!70 Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ! Vân rằng: Chị cũng nực cười, Buồng không lặng ngắt như tờ, Khéo dư nước mắt, khóc người đời xưa! Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh. Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưa, Khóc than khôn xiết sự tình, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu. Khéo vô duyên bấy là mình với ta! Nỗi niềm tưởng đến mà đau, Đã không duyên trước chăng mà, 110 Thấy người nằm đó, biết sau thế nào? Thì chi chút ước gọi là duyên sau. Quan rằng: Chị nói hay sao, Sắm sanh nếp tử, xe châu, Một lời là một vận vào khó nghe! Vùi nông một nấm, mặc dầu cỏ hoa. Ở đây âm khí nặng nề, Trải bao thỏ lặn, ác tà, Bóng chiều đã ngả, dặm về còn xa.80 Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm! Ki ...

Tài liệu được xem nhiều: