Danh mục

Tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 403.93 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi nghiên cứu tìm hiểu khái quát về tự chủ đại học, kinh nghiệm tự chủ đại học ở một số nước và thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giớiTỰ CHỦ ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ KINH NGHIỆM THẾ GIỚI Nguyễn Công Đức Trường Đại học Công đoàn Tóm tắt: Hiện nay, tự chủ đại học đang là xu hướng mang tính toàn cầu trongquản trị giáo dục đại học, là xu thế tất yếu của các quốc gia trong quản trị đại học, đólà xu hướng cắt giảm sự can thiệp của nhà nước trong quản lý nhà trường, tăng cườnggiao quyền tự chủ cho các trường. Quyền tự chủ đại học ở các quốc gia khác nhau phụthuộc vào mô hình nhà nước, trình độ phát triển, văn hóa, xã hội, pháp luật… Kinhnghiệm quốc tế, đặc biệt là những quốc gia có nền giáo dục phát triển cũng như có néttương đồng về thể chế nhà nước, về văn hóa là một trong những giải pháp quan trọngđể đề ra các giải pháp phù hợp cho đổi mới tăng cường quyền tự chủ cho các trườngđại học ở Việt Nam. Giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, đào tạo là một trongnhững nhiệm vụ quan trọng mà Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định nhằmđổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo-một trong ba đột phá chiến lược cầnthực hiện có hiệu quả trong giai đoạn mới. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đinghiên cứu tìm hiểu khái quát về tự chủ đại học, kinh nghiệm tự chủ đại học ở một sốnước và thực tiễn hiện nay ở Việt Nam. Từ khóa: Tự chủ đại học; kinh nghiệm thế giới; thực tiễn Việt Nam. 1. Đặt vấn đề Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta hiện nay là một vấn đềđược cả xã hội và các ban ngành quan tâm, phải giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáodục đại học thì mới có thể góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáodục đại học, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo và mấuchốt vấn đề là nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhậpkhu vực và quốc tế. Việc nghiên cứu quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học cônglập trong bối cảnh hiện nay là hoàn toàn cần thiết và kịp thời, sẽ là cơ sở để đề xuấtcác giải pháp tăng cường quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học công lập, gópphần đổi mới phương thức quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học 2. Khái quát một số vấn đề về tự chủ giáo dục đại học Tự chủ đại học (University autonomy) là quyền của cơ sở giáo dục đại họcquyết định sứ mạng và chương trình hoạt động của mình, cách thức và phương tiệnthực hiện sứ mạng và chương trình hoạt động đó, đồng thời tự chịu trách nhiệm trướccông chúng và pháp luật về mọi quyết định cũng như hoạt động của mình. Đây là hìnhthức quản trị thích hợp với những tổ chức không thuộc hệ thống hành chính (hệ thốngcó cấp trên cấp dưới; cấp dưới do cấp trên bổ nhiệm và phải làm theo quyết định củacấp trên.). Trên thế giới, khái niệm “tự chủ đại học” (University autonomy) nói đến cácmối quan hệ đang thay đổi giữa nhà nước và các trường đại học (N.V. Varghese,Michaela Martin, Thomas Estermann). Xu hướng thay đổi cơ bản là phát huy truyềnthống tự do học thuật và giảm dần sự kiểm soát trực tiếp của các cơ quan công quyềnđối với trường đại học. Từ góc độ này, tự chủ đại học là quyền tự do của thể chế đạihọc trong việc ra quyết định và thực thi các quyết định đối với các hoạt động nội bộ 503của đại học mà không có sự kiểm soát hay can thiệp của nhà nước và bất kỳ sự ảnhhưởng nào nếu có của nhà nước cũng đều phải dựa trên cơ sở pháp luật. Tự chủ đạihọc là tự chủ thể chế đại học với nghĩa là tự chủ của trường đại học và tự chủ này đượcthể chế hóa bởi hệ thống các chính sách, pháp luật của nhà nước. Thuật ngữ “tự chủ đại học”, mặc dù xuất hiện nhiều trong truyền thông đạichúng, nhưng chưa được sử dụng một cách chính thức trong đường lối, chính sáchgiáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1979-2005. Nghị quyết số 14/1979/NQ-TW về cải cáchgiáo dục chưa nói đến “đổi mới giáo dục”, “tự chủ”, “tự chịu trách nhiệm” trong giáodục. Nhưng Nghị quyết này sử dụng từ ngữ “cải cách giáo dục” 33 lần, trong đó nêu rõba mục tiêu của cải cách giáo dục là: (i) chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ lúc thơ ấuđến lúc trưởng thành, (ii) thực hiện phổ cập giáo dục trong toàn dân, (iii) đào tạo vàbồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ lao động mới. Nghị quyết số 04/1993/NQ-TW về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đàotạo sử dụng từ ngữ “cải cách giáo dục” 3 lần, sử dụng từ ngữ “cải cách” 12 lần, nhưngchưa sử dụng từ ngữ “tự chịu trách nhiệm, “trách nhiệm giải trình” và “tự do” tronggiáo dục. Đặc biệt, Nghị quyết này đã 2 lần sử dụng từ ngữ “tự chủ”. Luật Giáo dục (2005) có hiệu lực từ ngày 01-01-2006 chỉ 1 lần sử dụng từ ngữ“đổi mới” khi quy định một trong các nhiệm vụ của nhà giáo là “đổi mới phương phápgiảng dạy” (Điều 72, Khoản 4). Luật này chỉ 1 lần sử dụng từ ngữ “cải cách” nhưngkhông phải “cải cách giáo dục”nói ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: