Danh mục

Tục ngữ ca dao về miền Núi Ấn Sông Trà

Số trang: 20      Loại file: pdf      Dung lượng: 306.33 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong văn chương truyền khẩu của dân tộc ta, tục ngữ ca dao chiếm một vị trí quan trọng. Ngoài những câu được phổ biến trong cả nước hoặc được truyền tụng qua nhiều địa phương, mỗi địa phương lại có những câu tục ngữ ca dao mang tính chất đặc thù của địa phương mình.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tục ngữ ca dao về miền Núi Ấn Sông Trà TỤC NGỮ CA DAO MIỀN NÚI ẤN SÔNG TRÀ Trong văn chương truyền khẩu của dân tộc ta, tục ngữ ca dao chiếm một vị trí quantrọng. Ngoài những câu được phổ biến trong cả nước hoặc được truyền tụng qua nhiều địaphương, mỗi địa phương lại có những câu tục ngữ ca dao mang tính chất đặc thù của địaphương mình. Tính chất đặc thù nầy, hoặc nói lên bản sắc của người dân địa phương thuộcmỗi vùng, hoặc phản ảnh một số địa danh, đặc sản, nghề nghiệp, tập quán hoặc ngôn ngữ củatừng địa phương. Tại miền núi An sông Trà cũng đã sản sinh nhiều câu tục ngữ ca dao mang tính chấtriêng biệt của mình, hoặc dù không phản ảnh một cách trung thực cá tính địa phương nhưngtrên thực tế lại chỉ được truyền tụng trong địa phương Quảng Ngãi, và ở một vài địa phươnglân cận như Quảng Nam ở phía Bắc và Bình Định ở phía nam mà thôi. Có lẽ không một người dân Quảng Ngãi nào lại không biết đến câu tục ngữ: Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co . . . Đã có nhiều cách giải thích câu tục ngữ nầy, đặc biệt là câu thứ hai nói riêng về ngườidân Quảng Ngãi. Có nhiều người cho rằng”co” ở đây là co cụm, co lại, là không muốn“chuyện bé xé ra to”, là chỉ muốn “dĩ hòa vi quý”. Lại có người cho rằng”co” ở đây là cocượng, là đôi co, là chỉ muốn phần hơn về mình, không cần phân biệt phải trái. Cả 2 cách giảithích nầy đều không nêu đúng bản chất của người dân Quảng Ngãi. Bởi lẽ cả 2 cách giảithích đã chỉ nhằm vào mặt giá trị tiêu cực của từ “co” mà không đánh giá đúng mặt giá trịtích cực của nó. Gần nửa thiên niên kỷ sống dưới chế độ phong kiến hà khắc, mấy mươi năm sốngdưới ách thực dân cai trị, người dân Quảng Ngãi đã phải vô cùng khôn ngoan, vô cùng kiêncường mới có thể tồn tai trong cái xã hội đầy rẫy bất công thời xưa. Cái chính là tinh thần bấtkhuất, ý chí kiên cường của người dân Quảng Ngãi mới nói lên giá trị tích cực đích thực củacâu “Quảng Ngãi hay co”. Thổ ngơi Quảng Ngãi, vùng đất sỏi cây cằn, thuở xưa lắm rừng, nhiều truông, núichạy ra gần sát biển, lại thường xuyên phải hứng chịu những thiên tai khốc liệt đã hun đúccho người dân Quảng Ngãi đức tính cần cù, nhẫn nại, chịu đựng. Chính thổ ngơi đó đã sinhsản ra câu tục ngữ : Quảng Ngãi đãi ra sạn. Bản chất keo kiệt chăng? Bản chất hà tiện chăng? Không phải vậy đâu. Đời sống “ănbữa sáng lo bữa tối”, đời sống “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” mới có miếng ăn, đã tạo nên đứctính vun quén, tiện tặn của người dân Quảng Ngãi đúng như nhận xét của các sử quan triềuNguyễn đã ghi trong “Đại Nam Nhất Thống Chí”: “Quảng Ngãi đất xấu, dân nghèo, tính tình kiệm ước. . .” “Đãi ra sạn” chính là đức tính kiệm ước đáng khen của người dân Quảng Ngãi vậy. Đức tính kiệm ước đó cũng đã tạo cho người dân Quảng Ngãi biết tính toán một cáchkhôn ngoan trong cuộc sống hằng ngày: Bồng em đi dạo vườn cà, Trái non bỏ mắm, trái già làm dưa. Làm dưa ba bữa dưa chua, Để dành ăn cấy, khỏi mua tốn tiền. Đức tính kiệm ước đóbắt nguồn từ sự cơ cực, tay làm hàm nhai, phải tận dụng mọikhoảng thời gian để kiếm sống: Củ lang Đồng Ngổ, Đỗ phụng Đồng Dinh Chàng bòn, thiếp mót đổ chung một gùi. Trong hoàn cảnh sản xuất còn lạc hậu, họ phải biết tận dụng mọi phương tiện, mọiđiều kiện để tăng gia sản xuất, kể cả việc dùng phân người , còn gọi là phân bắc, để làm phânbón. Dân Cà Đó thuộc xã Đức Lương, quận Mộ Đức làm nghề lượm phân người đem về bóncho cây thuốc lá. Thuốc lá Cà Đó ngon nổi tiếng, bán ra khắp tỉnh, ở phía nam còn bán tớiBình Định. Đối với dân Cà Đó, lượm phân người để bón cho cây thuốc lá là một kinhnghiệm truyền thống và ai muốn nhập cư về đây – làm dâu hoặc làm rể xứ nầy – phải chịutheo nghề của cư dân ở đây: Ai về Cà Đó, Chịu khó xách ki. Tay cầm đôi đũa, chân đi lòm khòm. Mỗi địa phương có một số đặc sản tiêu biểu. Những đặc sản nầy thường được ghi lạiqua những câu tục ngữ hay ca dao được lưu truyền trong từng địa phương. Chẳng hạn ởQuảng Nam có câu: Nem chả Hòa Vang, Bánh tổ Hội An, Khoai lang Trà Kiệu, Thơm rượu Tam Kỳ. Ơ Khánh Hòa có câu: Yến sào Hòn Nội, Vịt lội Ninh Hòa, Tôm hùm Bình Kha, Nai khô Diên Khánh. Thì ở Quảng Ngãi cũng có câu: Chim mía Xuân Phổ, Cá bống sông Trà, Kẹo gương Thu Xà, Mạch nha Thi Phổ. Cá bống là một loại thủy sản thường xuất hiện nhiều ở hai con sông Trà Khúc và sôngVệ, ngon nhất là cá bống ở vùng con nước bến Tam Thương (Thị xã Quảng Ngãi). Cá bốngkho tiêu là là một nghệ thuật đặc biệt về ẩm thực của người dân Quảng Ngãi. Thế nên, dù đibất cứ đâu, khi nhớ về quê nhà, người dân Quảng Ngãi vẫn thường nhắc đến món ăn “cábống kho tiêu” nầy: Anh đi anh nhớ quê nhà, Nhớ món cá bống sông Trà kho tiêu. Hay: Đi đâu cũng nhớ Thu Xà, Nhớ mùi cá bống mặn mà hương tiêu. Một loại thủy sản khác mang tính chất đặc biệt Quảng Ngãi, đó là “don”. Don là mộtloại thủy sản thuộc họ nhà hến, chỉ xuất hiện ở vùng nước chè hai của con sông Trà Khúc. Nếu người dân Huế biết dùng con hến để tạo nên món “cơm hến”, một món ăn đặcbiệt của giới bình dân xứ Huế, người dân Quảng Ngãi cũng đã dùng một loại hến có tên làdon, để tạo nên món don, một món ăn đặc biệt của người bình dân miền Đông Tư Nghĩa và Cô gái lòng son Không bằng tô don Vạn Tượng ! Và ...

Tài liệu được xem nhiều: