Danh mục

ƯƠNG TÔM CÀNG XANH TỪ BỘT LÊN GIỐNG – NHẰM ĐẠT HIỆU QUẢ KINH TẾ CAO HƠN

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 135.07 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Không giống như tôm sú về đặc tính sinh học, tôm càng xanh ngay từ trong trại sản xuất giống đã xuất hiện sự phân đàn, thể hiện rõ nhất sau mỗi lần lột xác, sự phân ly kích thước càng sâu sắc hơn. Xuất hiện nhiều giai đoạn, trong thời gian kéo dài, do đó mặc dù cùng độ tuổi, ấu trùng có sự chênh lệch về thời gian chuyển postlarvae, kích thước và chiều dài cá thể…
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ƯƠNG TÔM CÀNG XANH TỪ BỘT LÊN GIỐNG – NHẰM ĐẠT HIỆU QUẢ KINH TẾ CAO HƠNƯƠNG TÔM CÀNG XANH TỪ BỘT LÊN GIỐNG –NHẰM ĐẠT HIỆU QUẢ KINH TẾ CAO HƠNKhông giống như tôm sú về đặc tính sinh học, tôm càng xanh ngay từ trong trại sản xuất giống đã xuất hiện sự phân đàn, thể hiện rõ nhất sau mỗi lần lột xác, sự phân ly kích thước càng sâu sắc hơn. Xuất hiện nhiều giaiđoạn, trong thời gian kéo dài, do đó mặc dù cùng độ tuổi,ấu trùng có sự chênh lệch về thời gian chuyển postlarvae,kích thước và chiều dài cá thể… Từ đó, khởi đầu cho mộtquá trình phân đàn theo giới tính, trọng lượng, kích thước,có sự chênh lệch kích thước giữa con khỏe và con yếu, kéodài đến giai đọan trưởng thành. Đó là những yếu tố quantrọng nhất góp phần làm cho các mô hình nuôi tôm càngxanh rất khó khăn khi triển khai, tỉ lệ sống sau thời giannuôi thường thấp, quá trình lột xác không đồng đều, hìnhthành nhiều kích cỡ khác nhau, dẫn đến tình trạng con lớnăn thịt con bé hơn. Sự phát triển không đồng đều về kíchthước, trọng lượng, làm xuất hiện cá thể còi, chai, chậm lớndo thiếu thức ăn, do tăng trưởng cục bộ ở một số cá thể đầuđàn tranh giành thức ăn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đếnnăng suất, sản lượng, sự tồn tại và hiệu quả kinh tế của môhình. Như vậy, việc thực hiện khâu ương tôm càng xanh từbột lên giống nhằm hạn chế những khó khăn và hướng cácmô hình nuôi tôm càng xanh theo tiêu chí an toàn, bềnvững, đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Kỹ thuật ương được bắtđầu từ khâu chọn dụng cụ ương.Đối với tôm càng xanh, có thể thực hiện ương trong ao, bểciment, bể bạt, vèo lưới, hoặc quây một góc ao nuôi làmnơi ương tôm con. Đối với mô hình ương trong ao, cần phảithực hiện công đoạn cải tạo gồm xả cạn nước, sên vét bùn,xảm mọi, gia cố bờ, cống. Tiến hành bón vôi, dùng vôinông nghiệp bón lượng 7-10kg/100m2 ao, phơi nắng 5-7ngày, tiến hành gây màu nước bằng phân chuồng lượng 25-30kg/100mét vuông hoặc phân DAP lượng 300-500g/100mét vuông ao, khi nước có màu xanh noãn chuối thì tiếnhành thả giống. Đối với mô hình ương trong bể ciment, bểbạt, vèo lưới thì cần giữ mức nước trong môi trường ươngít nhất đạt độ sâu 0.5m, có sục khí liên tục, chủ động bố trínơi thông thoáng, ánh sáng vừa phải. Dù ương trong môhình nào, cũng cần bố trí chất chà trong dụng cụ ương.Chất chà làm bằng lưới cước, tre gai, tàu dừa… Diện tíchchà chiếm 50-60% so với diện tích ao, nên bó chà thànhcụm, dễ dàng quản lý. Mặt nước khu ương tôm, nên thả lụcbình chiếm 50-70%. Mật độ ương tùy theo dụng cụ, môitrường , điều kiện cơ sở vật chất, khả năng nắm bắt kỹthuật, đầu tư…mà linh động điều chỉnh cho hợp lý. Đối vớiương trực tiếp trong ao, mật độ ương duy trì ở mức 300-500 con/mét vuông. Trong bể bạt, bể ciment, vèo lưới,ương với mật độ 2000-3000con/mét vuông. Nên chọn tômbột khỏe mạnh, đã qua giai đoạn thuần độ mặn, đồng đềucỡ loại, tuổi, tôm ương tốt nhất chọn cỡ P12-15.Chọn thời điểm sáng sớm hoặc chiều mát để thả giống,không thả giống khi trời nắng nóng, trời mưa. Nếu vậnchuyển giống nơi xa về, không thả tôm bột ra dụng cụ ươngngay, cần thả bao oxy xuống mô hình ương, để khoảng 15-30 phút, cho 2 môi trường cân bằng, tôm bột có thời gianđiều chỉnh theo những thông số mới. Chọn nơi sạch, xacống cấp, thoát, xa bờ để thả giống. Thức ăn trong giaiđoạn ương gồm thức ăn sống: trùn chỉ; thức ăn thực vật:cám, khoai, bánh dầu và thức ăn công nghiệp dạng viên.Thức ăn là thịt nhuyễn thể như mực, trai, nghêu. Thức ăn làcá, tép, ruốc. Lượng ăn mỗi ngày chiếm 15-20% so vớitrọng lượng thân tôm.Thức ăn nên cho vào trong vó, máng ăn, sàng ăn, để dễdàng điều chỉnh theo nhu cầu sử dụng của tôm bột. Trongquá trình ương, nên chủ động đình kỳ thay nước mỗi tuần2-4 lần, căn cứ tùy theo chất lượng môi trường nuôi. Mỗilần thay từ 30-50% lượng nước ao nuôi, chăm sóc và quảnlý thức ăn tránh dư thừa, quản lý màu nước, chủ động địnhkỳ bổ xung trong thức ăn Vitamine C, Ca/P, Premix…lượng bình quân 1-3g/kg thức ăn. Sự phát triển, tỉ lệ sống,độ đồng đều trong quá trình ương tôm càng xanh lệ thuộcvà chịu ảnh hưởng rất nhiều từ môi trường ương, mật độương, thức ăn, chăm sóc, quản lý… Trong đó chịu ảnhhưởng trực tiếp và nhiều nhất, rõ nhất từ đặc tính sinh họccủa loài. Sự phân ly tính trạng đực cái, hình thành nhiều cỡ,loại, xuất hiện cá thể vượt đàn, cá thể chai còi, chậm lớn…Mức độ phân đàn được hạn chế tối đa, nếu người ương nắmvững kỹ thuật, chăm sóc quản lý môi trường tốt, cho ăn đủchất, lượng, thành phần, thức ăn được phân bổ đồng đềutrong ao, hồ ương. Sau thời gian ương 25-30 ngày, tùy theođiều kiện mỗi nơi, tôm giống đạt kích thước 2-3cm có thểthu hoạch đem đi nuôi thịt. ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: