Vacxin phòng bệnh gan thận mủ cho cá Tra
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 300.49 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tổng quan - Kết quả đánh giá tính an toàn và hiệu lực của vắcxin đối với cá tra nuôi thươngphẩm cho thấy vắcxin ALPHAJECT®Panga 1 là an toàn, việc tiêm vắcxin không gây ảnh hưởng đến sinh trưởng của cá, đồng thời tiêm vắcxin vào xoang bụng cá đã kích thích hình thành miễn dịch đặc hiệu chống vi khuẩn Edwardsiella ictaluri và bảo hộ được cá khi bệnh xảy ra.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vacxin phòng bệnh gan thận mủ cho cá Tra Vacxin phòng bệnh gan thận mủ cho cá Tra I. Tổng quan - Kết quả đánh giá tính an toàn và hiệu lực của vắcxin đối với cá tra nuôi thươngphẩm cho thấy vắcxin ALPHAJECT®Panga 1 là an toàn, việc tiêm vắcxin không gây ảnh hưởng đến sinh trưởng của cá, đồng thời tiêm vắcxin vào xoang bụng cá đã kích thích hình thành miễn dịch đặc hiệu chống vi khuẩn Edwardsiella ictaluri và bảo hộ được cá khi bệnh xảy ra. - Cho đến nay, kháng sinh vẫn là biện pháp được áp dụng nhiều nhất ở Việt Nam để điều trị bệnh do vi khuẩn. Việc sử dụng kháng sinh bừa bãi, không đúng cách có thể dẫn đến hiện tượng kháng thuốc của vi khuẩn. Hơn nữa, dư lượng kháng sinh còn ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và sức khỏe con người. Theo nghiên cứu của Dung và CTV, hơn 70% các chủng E. ictaluri gây bệnh gan thận mủ trên cá tra đã kháng với trimethoprim, oxytetracycline và streptomycin. Nhóm quinolon như fumequin, oxolinic acid và enrofoxacin cũng đã giảm tác dụng (Dung et al., 2008, 2010). - Việc ứng dụng vắcxin ngày càng rộng ở các quốc gia đã giảm đáng kể lượng kháng sinh để điều trị bệnh vi khuẩn trong nuôi trồng thủy sản, thậm chí một số quốc gia hầu như không còn cần đến kháng sinh nữa (Sommerset et al., 2005). Hiện nay, trên thế giới đã có khoảng 36 loại vắcxin phòng bệnh do vi khuẩn và 2 loại vắcxin phòng bệnh do virút được sử dụng rộng rãi cho nhiều loài cá nuôi. - Vi khuẩn E. ictaluri gây bệnh gan thận mủ “Bacillus Necrosis Pangasius” (BNP) là tác nhân nguy hiểm, gây thiệt hại nghiêm trọng nhất cho cá tra nuôi công nghiệp ở Việt Nam (Từ Thanh Dung và ctv, 2004). Vi khuẩn E. ictaluri có dạng hình que ngắn, Gram âm, thuộc họ Enterobacteriaceae, là loại vi khuẩn đặc thù gây bệnh trên cá nheo nuôi công nghiệp, lần đầu tiên phân lập từ cá nheo Mỹ (Ictalurus furcatus) gây bệnh nhiễm trùng máu “Enteric Septicemia of Catfsh” (ESC), cá trê trắng (Clarias batrachus) ở Thái Lan và một số loài cá nheo khác (Inglis et al., 1993). - Tuy nhiên, ở Việt Nam, đến nay vẫn chưa có vắcxin phòng bệnh cho cá, ngay cả cá nuôi công nghiệp với sản lượng cao như cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long. Chính vì thế, nỗ lực tìm ra vắcxin phòng bệnh do vi khuẩn E. ictaluri gây ra trên cá tra là hết sức cần thiết nhằm giảm tỉ lệ cá chết, từ đó nâng cao thu nhậpchongườinuôi, góp phần đảm bảo VSATTP, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, nâng cao giá trị hình ảnh cá tra Việt Nam trên thị trường thế giới, hướng đến một nền công nghiệp cá tra phát triển bền vững. - Từ các kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về tính an toàn và tính hiệu quả của vắcxin ALPHAJECT® Panga 1, Cục Thú Y Bộ NN&PTNT đã đồng ý để Công ty PHARMAQ AS và Bayer Vietnam phối hợp với trường Đại học Cần Thơ triển khai thử nghiệm sử dụng vắcxin cho cá nuôi trong ao thương phẩm để đánh giá tác dụng thực địa của vắcxin ALPHAJECT® Panga 1 phòng bệnh gan thận mủ trên cá tra nuôi. II. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 1. Bố trí thí nghiệm - Thí nghiệm được thực hiện trên 3 ao ở 3 tỉnh Đồng Tháp, An Giang và Bến Tre, với tổng số 360.991 cá giống, liều tiêm 0,05 ml vắcxin ALPHAJECT® Panga 1/cá và 358.636 cá đối chứng. - Cá có trọng lượng 28 – 58g, sau khi tiêm bố trí nuôi hai nhóm cá riêng rẽ trong cùng 1 ao nuôi và theo dõi liên tục 170 ngày. Ghi chép hằng ngày các chỉ tiêu môi trường, tỷ lệ cá chết và các biểu hiện bất thường của cá. 2. Đánh giá tính an toàn của vắcxin Sau khi tiêm vắcxin, theo dõi vớt đếm cá chết mỗi ngày 2 lần. Số cá chết trong 21 ngày đầu trong mỗi nhóm cá là tiêu chí so sánh để đánh giá tính an toàn của vắcxin: - Theo dõi tăng trưởng của cá: Thu mẫu tối thiểu 30 con trong mỗi nhóm cá tiêm vắcxin và đối chứng. Bắt cá ngẫu nhiên bằng vợt hoặc chài sau 10, 20, 30, 40, 50, 60, 80, 110, 140 và 170 ngày từ khi tiêm vắcxin. Mẫu được gây mê và cân đo. - Quan sát phản ứng của cơ thể cá bằng mắt thường: Thu mẫu ngẫu nhiên 30 cá thể sau 60, 110 và 170 ngày từ khi tiêm để mổ, quan sát và đánh giá các phản ứng trong cơ thể cá tra với vắcxin bằng mắt thường. Ghi nhận các phản ứng kết dính các cơ quan nội tạng với nhau hoặc với thành bụng, sự hình thành sắc tố melanin trong xoang bụng và thành bụng, dư lượng vắcxin (ở dạng tự do và ở dạng hạt). - Quan sát sư thay đôi cấu trúc mô: Để đánh giá phản ứng của cơ thể cá với vắcxin ở mức độ tế bào, sau khi tiêm vắcxin 5,10, 20 và 60, 110, 170 ngày; thu khoảng 10 mẫu mô trong mỗi lô thí nghiệm, bao gồm tim, gan, thận, lách, màng treo ruột, một phần da và mô ngay vị trí tiêm, cố định mẫu trong formaline 10%. Các mẫu này sau đó được xử lý, cắt, nhuộm, phân tích tại Đại học Khoa học Thú y, Na Uy và trường Đại học Cần Thơ. Phương pháp mô học bao gồm: nhuộm Hematoxyline – Eosin (Ferguson 2006) và nhuộm hóa mô miễn dịch (Evensen & Olesen 1997). 3. Đánh giá tính hiệu quả của vắcxin - Xác định hiệu giá kháng thể trong máu cá: Ngoài việc thu mẫu máu xác định kháng thể cá trước khi tiêm vắcxin, còn lấy mẫu máu định kỳ với khoảng 20 cá thể trong mỗi nhóm tại các thời điểm 10, 20, 30, 40, 50, 80, 110, 140 và 170 ngày sau khi tiêm vắcxin. Phương pháp vi ngưng kết kháng nguyên – kháng thể trên đĩa 96 giếng của Roberson (1990). - Tỉ lệ chết tich luy do E. ictaluri: Khi cá có các dấu hiệu bệnh hoặc cá chết tăng bất thường trong ao thí nghiệm, tiến hành lấy mẫu vi khuẩn từ ít nhất 20 con có triệu chứng lâm sàng và 20 con còn khỏe trong mỗi nhóm thí nghiệm để phân tích nguyên nhân. Cá bệnh do vi khuẩn E. ictaluri khi trên gan, thận, lách có những đốm mủ màu trắng đặc trưng và phân lập thấy có sự hiện diện của vi khuẩn E. ictaluri. Cá được lấy mẫu vi khuẩn (ở gan, thận và tỳ tạng) cấy trên môi trường Tryptic Soy Agar (TSA) và ủ ở 28 độ C trong 24 – 48 giờ. Sau khi tách ròng (thuần), vi khuẩn được định danh theo Ferichs and Millar (1993). Việc thu mẫu vi khuẩn và ký sinh trùng định kỳ cũng được thực hiện thông qua những đợt thu mẫu cá đánh giá tính an toàn của vắcxin vào các thời điểm 60, 110 và 170 ngày sau khi tiêm vắcxin. - Cách tính tỉ lệ chết của cá: Tỉ lệ chết được ghi nh ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vacxin phòng bệnh gan thận mủ cho cá Tra Vacxin phòng bệnh gan thận mủ cho cá Tra I. Tổng quan - Kết quả đánh giá tính an toàn và hiệu lực của vắcxin đối với cá tra nuôi thươngphẩm cho thấy vắcxin ALPHAJECT®Panga 1 là an toàn, việc tiêm vắcxin không gây ảnh hưởng đến sinh trưởng của cá, đồng thời tiêm vắcxin vào xoang bụng cá đã kích thích hình thành miễn dịch đặc hiệu chống vi khuẩn Edwardsiella ictaluri và bảo hộ được cá khi bệnh xảy ra. - Cho đến nay, kháng sinh vẫn là biện pháp được áp dụng nhiều nhất ở Việt Nam để điều trị bệnh do vi khuẩn. Việc sử dụng kháng sinh bừa bãi, không đúng cách có thể dẫn đến hiện tượng kháng thuốc của vi khuẩn. Hơn nữa, dư lượng kháng sinh còn ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và sức khỏe con người. Theo nghiên cứu của Dung và CTV, hơn 70% các chủng E. ictaluri gây bệnh gan thận mủ trên cá tra đã kháng với trimethoprim, oxytetracycline và streptomycin. Nhóm quinolon như fumequin, oxolinic acid và enrofoxacin cũng đã giảm tác dụng (Dung et al., 2008, 2010). - Việc ứng dụng vắcxin ngày càng rộng ở các quốc gia đã giảm đáng kể lượng kháng sinh để điều trị bệnh vi khuẩn trong nuôi trồng thủy sản, thậm chí một số quốc gia hầu như không còn cần đến kháng sinh nữa (Sommerset et al., 2005). Hiện nay, trên thế giới đã có khoảng 36 loại vắcxin phòng bệnh do vi khuẩn và 2 loại vắcxin phòng bệnh do virút được sử dụng rộng rãi cho nhiều loài cá nuôi. - Vi khuẩn E. ictaluri gây bệnh gan thận mủ “Bacillus Necrosis Pangasius” (BNP) là tác nhân nguy hiểm, gây thiệt hại nghiêm trọng nhất cho cá tra nuôi công nghiệp ở Việt Nam (Từ Thanh Dung và ctv, 2004). Vi khuẩn E. ictaluri có dạng hình que ngắn, Gram âm, thuộc họ Enterobacteriaceae, là loại vi khuẩn đặc thù gây bệnh trên cá nheo nuôi công nghiệp, lần đầu tiên phân lập từ cá nheo Mỹ (Ictalurus furcatus) gây bệnh nhiễm trùng máu “Enteric Septicemia of Catfsh” (ESC), cá trê trắng (Clarias batrachus) ở Thái Lan và một số loài cá nheo khác (Inglis et al., 1993). - Tuy nhiên, ở Việt Nam, đến nay vẫn chưa có vắcxin phòng bệnh cho cá, ngay cả cá nuôi công nghiệp với sản lượng cao như cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long. Chính vì thế, nỗ lực tìm ra vắcxin phòng bệnh do vi khuẩn E. ictaluri gây ra trên cá tra là hết sức cần thiết nhằm giảm tỉ lệ cá chết, từ đó nâng cao thu nhậpchongườinuôi, góp phần đảm bảo VSATTP, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, nâng cao giá trị hình ảnh cá tra Việt Nam trên thị trường thế giới, hướng đến một nền công nghiệp cá tra phát triển bền vững. - Từ các kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về tính an toàn và tính hiệu quả của vắcxin ALPHAJECT® Panga 1, Cục Thú Y Bộ NN&PTNT đã đồng ý để Công ty PHARMAQ AS và Bayer Vietnam phối hợp với trường Đại học Cần Thơ triển khai thử nghiệm sử dụng vắcxin cho cá nuôi trong ao thương phẩm để đánh giá tác dụng thực địa của vắcxin ALPHAJECT® Panga 1 phòng bệnh gan thận mủ trên cá tra nuôi. II. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 1. Bố trí thí nghiệm - Thí nghiệm được thực hiện trên 3 ao ở 3 tỉnh Đồng Tháp, An Giang và Bến Tre, với tổng số 360.991 cá giống, liều tiêm 0,05 ml vắcxin ALPHAJECT® Panga 1/cá và 358.636 cá đối chứng. - Cá có trọng lượng 28 – 58g, sau khi tiêm bố trí nuôi hai nhóm cá riêng rẽ trong cùng 1 ao nuôi và theo dõi liên tục 170 ngày. Ghi chép hằng ngày các chỉ tiêu môi trường, tỷ lệ cá chết và các biểu hiện bất thường của cá. 2. Đánh giá tính an toàn của vắcxin Sau khi tiêm vắcxin, theo dõi vớt đếm cá chết mỗi ngày 2 lần. Số cá chết trong 21 ngày đầu trong mỗi nhóm cá là tiêu chí so sánh để đánh giá tính an toàn của vắcxin: - Theo dõi tăng trưởng của cá: Thu mẫu tối thiểu 30 con trong mỗi nhóm cá tiêm vắcxin và đối chứng. Bắt cá ngẫu nhiên bằng vợt hoặc chài sau 10, 20, 30, 40, 50, 60, 80, 110, 140 và 170 ngày từ khi tiêm vắcxin. Mẫu được gây mê và cân đo. - Quan sát phản ứng của cơ thể cá bằng mắt thường: Thu mẫu ngẫu nhiên 30 cá thể sau 60, 110 và 170 ngày từ khi tiêm để mổ, quan sát và đánh giá các phản ứng trong cơ thể cá tra với vắcxin bằng mắt thường. Ghi nhận các phản ứng kết dính các cơ quan nội tạng với nhau hoặc với thành bụng, sự hình thành sắc tố melanin trong xoang bụng và thành bụng, dư lượng vắcxin (ở dạng tự do và ở dạng hạt). - Quan sát sư thay đôi cấu trúc mô: Để đánh giá phản ứng của cơ thể cá với vắcxin ở mức độ tế bào, sau khi tiêm vắcxin 5,10, 20 và 60, 110, 170 ngày; thu khoảng 10 mẫu mô trong mỗi lô thí nghiệm, bao gồm tim, gan, thận, lách, màng treo ruột, một phần da và mô ngay vị trí tiêm, cố định mẫu trong formaline 10%. Các mẫu này sau đó được xử lý, cắt, nhuộm, phân tích tại Đại học Khoa học Thú y, Na Uy và trường Đại học Cần Thơ. Phương pháp mô học bao gồm: nhuộm Hematoxyline – Eosin (Ferguson 2006) và nhuộm hóa mô miễn dịch (Evensen & Olesen 1997). 3. Đánh giá tính hiệu quả của vắcxin - Xác định hiệu giá kháng thể trong máu cá: Ngoài việc thu mẫu máu xác định kháng thể cá trước khi tiêm vắcxin, còn lấy mẫu máu định kỳ với khoảng 20 cá thể trong mỗi nhóm tại các thời điểm 10, 20, 30, 40, 50, 80, 110, 140 và 170 ngày sau khi tiêm vắcxin. Phương pháp vi ngưng kết kháng nguyên – kháng thể trên đĩa 96 giếng của Roberson (1990). - Tỉ lệ chết tich luy do E. ictaluri: Khi cá có các dấu hiệu bệnh hoặc cá chết tăng bất thường trong ao thí nghiệm, tiến hành lấy mẫu vi khuẩn từ ít nhất 20 con có triệu chứng lâm sàng và 20 con còn khỏe trong mỗi nhóm thí nghiệm để phân tích nguyên nhân. Cá bệnh do vi khuẩn E. ictaluri khi trên gan, thận, lách có những đốm mủ màu trắng đặc trưng và phân lập thấy có sự hiện diện của vi khuẩn E. ictaluri. Cá được lấy mẫu vi khuẩn (ở gan, thận và tỳ tạng) cấy trên môi trường Tryptic Soy Agar (TSA) và ủ ở 28 độ C trong 24 – 48 giờ. Sau khi tách ròng (thuần), vi khuẩn được định danh theo Ferichs and Millar (1993). Việc thu mẫu vi khuẩn và ký sinh trùng định kỳ cũng được thực hiện thông qua những đợt thu mẫu cá đánh giá tính an toàn của vắcxin vào các thời điểm 60, 110 và 170 ngày sau khi tiêm vắcxin. - Cách tính tỉ lệ chết của cá: Tỉ lệ chết được ghi nh ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kinh nghiệm nuôi cá tra bệnh gan thận mủ ở cá tra kỹ thuật chăn nuôi cơ giới hóa nông nghiệp phương pháp chăn nuôi kỹ thuật trồng trọtGợi ý tài liệu liên quan:
-
5 trang 122 0 0
-
Một số đặc điểm ngoại hình và sinh lý sinh dục của chuột lang nuôi làm động vật thí nghiệm
5 trang 117 0 0 -
Giáo trình Máy và thiết bị nông nghiệp: Tập I (Máy nông nghiệp) - Trần Đức Dũng (chủ biên)
195 trang 82 0 0 -
Giáo trình chăn nuôi gia cầm - Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên
230 trang 70 1 0 -
Bài giảng Chăn nuôi trâu bò - Chương 4: Chăn nuôi trâu bò cái sinh sản
12 trang 66 0 0 -
Đặc Điểm Sinh Học Của Sò Huyết
5 trang 62 0 0 -
Giáo trình Chăn nuôi trâu bò (ĐH Nông nghiệp I HN) - Tài liệu tham khảo
3 trang 57 1 0 -
NGHỀ CHĂN NUÔI NGAN AN TOÀN SINH HỌC
28 trang 53 0 0 -
Chăm sóc thỏ mẹ và thỏ mới sinh
3 trang 47 0 0 -
Báo cáo thực tập tổng quan về cây rau cải xanh
9 trang 47 0 0