Thông tin tài liệu:
Vài nét về nhà Lý (1010-1225) 2III. Phát triển kinh tế 1. Nông nghiệp Đại bộ phận ruộng đất trong nước là ruộng đất của công xã. Công xã có được uy quyền tự trị rộng rãi. Ruộng đất của công xã nào là do công xã ấy quản lý. Tuy thế, nhà vua vẫn có quyền sở hữu tối cao tên ruộng đất, nên nông dân cày ruộng công xã vẫn phải nộp tô thuế, lao dịch và đi lính cho nhà vua. Mức thuế được định là 100 thăng mỗi mẫu. Ngoài ra còn có ruộng cấp cho...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vài nét về nhà Lý (1010-1225) 2 Vài nét về nhà Lý (1010-1225) 2III. Phát triển kinh tế1. Nông nghiệpĐại bộ phận ruộng đất trong nước là ruộng đất của công xã. Công xã có được uyquyền tự trị rộng rãi. Ruộng đất của công xã nào là do công xã ấy quản lý. Tuythế, nhà vua vẫn có quyền sở hữu tối cao tên ruộng đất, nên nông dân cày ruộngcông xã vẫn phải nộp tô thuế, lao dịch và đi lính cho nhà vua. Mức thuế được địnhlà 100 thăng mỗi mẫu.Ngoài ra còn có ruộng cấp cho quý tộc quan lại có công và được gọi là thác đaođiền (ruộng ném đao, từ sự tích Lê Phụng Hiểu). Từ đó hình thành thái ấp của mộtsố quý tộc và quan lại cao cấp. Nông dân trong thái ấp không có nghĩa vụ đóngthuế cho nhà nước mà chỉ đóng cho chủ thái ấp. Chủ thái ấp đóng thuế cho nh ànước tương đương với mức thuế của ruộng đất công xã.Nhà nước có ruộng riêng của nhà nước gọi là ruộng quốc khố, người cày ruộng làtù binh hay phạm nhân. Tô thuế ruộng quốc khố nặng hơn so với các loại ruộngtrên.Nhà Lý coi trọng nghề nông và đề ra nhiều chính sách khuyến khích nông nghiệp.Sức lao động và sức kéo được bảo vệ. Quân lính thay phiên nhau làm ruộng,những người đi phiêu bạt được trở về quê hương nhận ruộng cày cấy. Trâu bòđược bảo vệ. Không những việc trộm trâu bị trừng phạt nặng mà ngay cả việc giếttrâu sở hữu của mình cũng bị ngăn cấm. Nhà nước quy định cứ ba nhà hợp thànhmột bảo để kiểm soát lẫn nhau và cùng liên đới chịu trách nhiệm về tội giết trâubò.Vấn đề thủy lợi được tiến hành với qui mô lớn. Đê Cơ Xá được đắp vào triều LýNhân Tông đã giúp chống được lụt của sông Hồng. Nông nghiệp dưới thời nhà Lýnhờ vậy đã được phát triển và nuôi được dân chúng.2. Thủ công nghiệpNghề dệt đã phát triển đáng kể, sản xuất đủ loại từ gấm đoạn, lụa cho đến vải sợi.Năm 1040, Lý Thái Tông quyết định dùng gấm vóc trong nước để may lễ phụccho vua quan mà không phải mua gấm vóc của nước ngoài nữa.Nghề gốm tiến một bước khá dài và đạt được trình độ cao về sản xuất cũng như vềnghệ thuật. Ngói gạch được sản xuất đầy đủ để phục vụ cho việc xây dựng nhà cửacùng lâu đài, cung điện. Có loại ngói tráng men, ngói bằng sứ trắng, gạch cỡ lớncó trang trí hoa văn và có khắc niên hiệu nhà Lý. Các đồ dùng bằng sành sứ đượcchế tạo tinh xảo với các lớp men nâu, men ngọc, men trắng ngà cùng những hoavăn trang nhã hoặc khắc chìm, nổi rất công phu.Nghề khắc bản in đã xuất hiện, chủ yếu dùng để in các kinh Phật.Giao thông và buôn bán cũng được phát triển. Các con đường giao thông thủy bộđược mở mang. Từ Thăng Long có những con đường thủy đi đến tận biên giớiphía Bắc và phía Nam. Dọc các đường bộ quan trọng có nhà trạm và các ụ đất cắmbiển gỗ ở trên để chỉ phương hướng.Việc buôn bán với nước ngoài rất phát triển. Cảng Vân Đồn (Quảng Ninh) là nơitàu thuyền nước ngoài tấp nập đến trao đổi.IV. Phát triển văn hóa - xã hộiNho giáo: Nhà Lý bắt đầu chăm lo việc mở mang học tập và thi cử để tuyển lựanhân tài ra làm quan. Năm 1070, Lý Thánh Tông cho dựng Văn miếu (thờ KhổngTử, Chu Tử và 72 vị tiền hiền) và mở Quốc Tử Giám. Nền đại học Việt Nam bắtđầu từ đấy. Năm 1075 triều đình mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài. Đây làkhoa thi tam trường gồm có đủ Phật, Lão, Nho. Vị Trạng nguyên đầu tiên củanước ta là Lê Văn Thịnh đậu ở khoa thi này.Tầng lớp nho sĩ thấm nhuần ý thức Nho giáo bắt đầu xuất hiện. Tr ước đây tầng lớpcó học trong xã hội hầu hết là các nhà sư. Từ đời Lý, Nho giáo bắt đầu có địa vịtrong xã hội. Tuy thế, chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo cũng chỉmới bắt đầu. Số nho sĩ được tạo ra hãy còn quá ít, Phật giáo vẫn chiếm ưu thế vàcác nhà sư vẫn giữ vai trò quan trọng trong xã hội.Phật giáo: Phật giáo được truyền bá rộng rãi trong quần chúng và có dấu ấn lênmọi sinh hoạt văn hóa. Nhà vua và tầng lớp quý tộc rất tôn sùng đạo Phật. Tất cảtám đời vua nhà Lý, vua nào cũng sùng tín đạo phật. Lý Thái Tổ bản thân là connuôi của sư Lý Khánh Vân và từng được nuôi dạy trong chùa từ nhỏ. Đó là vị vuaPhật tử đầu tiên của Việt Nam. Còn vua Lý Thái Tông là Tổ thứ bảy của phái thiềnVô Ngôn Thông, Lý Thánh Tông là Tổ thứ hai của phái thiền Thảo Đường.Phái thiền Thảo Đường là phái thiền thứ ba được thành lập tại Việt Nam vào năm1068. Việc hiện diện của vị thiền sư này tại đất Đại Cổ Việt là một sự tình cờ.Thảo Đường vốn người Trung Hoa đang hành đạo tại Champa, thì vào năm 1069bị quân Đại Việt bắt trong chuyến vua Lý Thánh Tông đi c hinh phạt. Ông bị đưavề Thăng Long. Tại đây, ông giúp việc cho một vị tăng lục và bộc lộ ra kiến thứcthiền học của mình. Vua biết đến, vời ông làm quốc sư và cho ông trụ trì tại chùaKhai Quốc ở Thăng Long. Phái thiền này truyền sáu thế hệ. Kể cả thiền sư ThảoĐiền, có tất cả 19 thiền sư. Lý Thánh Tông là vị Tổ thứ hai, Lý Anh Tông thuộcthế hệ thứ tư, Lý Cao Tông thuộc thế hệ thứ sáu.Hệ thống tăng già (sangha) được duy trì, quốc sư có vai trò như ngư ...