Danh mục

Vai trò các tác nhân trong tranh cãi Biển Đông là gì?

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 224.38 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bên ngoài trò chơi hai tầng nấc? Vai trò của các tác nhân quốc gia, xuyên quốc gia và tác nhân dưới tầm quốc gia (subnational) trong các tranh cãi biển đảo ở Biển Đông là gì? LTS: Trong Domestic politics, International Bargaining and China Territorial Disputes, NB RoutledgeCurzon, tác giả Chien-peng Chung đã đưa ra những ý kiến cho cách giải quyết các tranh chấp Biển Đông. Dù có những hạn chế nhất định thậm chí khó chấp nhận được, tài liệu cung cấp nhiều cái nhìn mới và những nguồn tham khảo quý giá, có thể...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò các tác nhân trong tranh cãi Biển Đông là gì? Vai trò các tác nhân trong tranh cãi Biển Đông là gì? Bên ngoài trò chơi hai tầng nấc? Vai trò của các tác nhân quốc gia, xuyên quốc gia và tác nhân dưới tầm quốc gia (subnational) trong các tranh cãi biển đảo ở Biển Đông là gì? LTS: Trong Domestic politics, International Bargaining and China Territorial Disputes, NB RoutledgeCurzon, tác giả Chien-peng Chung đã đưa ra những ý kiến cho cách giải quyết các tranh chấp Biển Đông. Dù có những hạn chế nhất định thậm chí khó chấp nhận được, tài liệu cung cấp nhiều cái nhìn mới và những nguồn tham khảo quý giá, có thể dùng cho các bạn đọc thích tìm hiểu về Biển Đông- khu vực gắn liền với phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam giới thiệu bài dịch 4 kỳ tư liệu này của Lê Vĩnh Trương. Giới thiệu: Các biểu hiện của trò chơi hai tầng của Trung Quốc trong các tranh cãi lãnh thổ tại Trường Sa, Hoàng Sa và các rặng san hô chìm dưới nước, các đảo san hô, các bãi cạn, các dải đá và đảo trong Biển Đông là gì? Tình cảm dân tộc của dân chúng, các quan tâm của giới chức, định hướng và thăng giảm thương mại, chiến lược của các nhà thương thuyết, các tác động khác nhau của chi phí và ích lợi của nhóm, các chế tài của cơ chế, và khả năng tái cấu trúc thể chế trong nước đã in đậm dấu ấn trong các tranh cãi về Điếu Ngư/Senkaku, Zhenbao/Damansky và Mc Mahon Line/Aksai Chin. Những nhân tố này sẽ khắc họa rõ nét nỗ lực của các nước liên quan trong việc giải quyết các vấn đề về chủ quyền ở các đảo tại Biển Đông. Sự mưu tìm thế chính danh cho chế độ, những nỗ lực của chính phủ trong việc xử lý các áp lực dân chủ hóa trong lòng các nước Đông Nam Á, tất cả đều được thể hiện với một sự nhạy cảm cao độ đối với an ninh quốc gia cùng với mối nguy phải bảo đảm chủ quyền lãnh thổ cho đất nước. Hơn nữa, cuộc cạnh tranh ảnh hưởng giữa giới ngoại giao và giới quân sự Trung Quốc trong quyết sách và phân bổ ngân sách cũng được soi rọi để rõ hơn các đường hướng tác động đến vị thế Trung Quốc tại Biển Đông. Biển Đông, đã vậy, lại còn bao gồm những con đường hàng hải chiến lược quan trọng và dưới lòng Biển Đông là những mỏ hydrocarbon tiềm năng. Thế nên chúng ta cần chú trọng đến các tác nhân xuyên quốc gia như các công ty dầu khí quốc tế hay các thể chế tạo dựng lòng tin đa phương cũng như các hoạt động của các tác nhân dưới tầm quốc gia (subnational) khi tác động đến chính giới hay các thương thuyết gia chính phủ trong ngăn ngừa xung đột hay giải quyết bất đồng. Thật vậy, vai trò vun bồi hòa bình của các nhân tố xuyên quốc gia -những công ty và cá nhân đa quốc tịch hay các tổ chức phi chính phủ- trong các cuộc tranh cãi như thế này cần được nghiên cứu thấu đáo hơn trước (trong mối tương tác trong nước và ngoài nước). Lược sử tranh chấp lãnh thổ Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ các đảo trong Biển Đông; Malaysia và Philippines tuyên bố một phần quần đảo Trường Sa còn Brunei thì tuyên bố chủ quyền đối với một bãi đá chìm. Cả Trung Quốc và Đài Loan đều khẳng định có chủ quyền lịch sử và cho rằng các đảo tại Biển Đông là lãnh thổ của Trung Quốc từ thời thượng cổ theo các khai quật khảo cổ các đồng tiền cổ, mảnh gốm sứ và dụng cụ nấu nuớng được cho là do các ngư dân Trung Quốc để lại các nơi này.[1] Tuy vậy chỉ khi Thực dân Pháp đến Việt Nam khẳng định chủ quyền của họ ở các đảo này vào năm 1933 thì việc quản hạt mới có hiệu lực.[2] Giữa khoảng thời gian 1939 và 1945 Hoàng Sa và Trường Sa bị Nhật Bản chiếm đóng và đã trở thành những căn cứ tàu ngầm. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, một nhóm hải quân từ Trung Hoa Dân Quốc đã đến khảo sát Hoàng Sa và Truờng Sa và không lâu sau đó đã đóng trú đảo lớn nhất tại Truờng Sơn, đó là Taiping hay Itu Aba, sau đó họ rút ra Đài Loan sau thất bại của Quốc Dân Đảng[3]. Tuy vậy kể từ năm 1947 một đường hình chữ U đã xuất hiện trên các bản đồ vẽ tại Đài Loan và Trung Quốc, bao trùm một phần Biển Đông. Philippines thì tuyên bố chủ quyền đối với Truờng Sa dựa vào việc một công dân Philippines tên là Tomas Cloma phát hiện một đảo tại Trường Sa năm 1947 và dựa vào cơ sở ông đã tuyên bố đó là Kalayaan (Đất tự do) còn bản thân là nguyên thủ.[4] Dù Toma Cloma đã chuyển chủ quyền của ông ta sang cho Philippines vào năm 1971 thì tuyên bố chủ quyền truớc đó của ông ta cũng đã kích thích Đài Loan chiếm đảo Taiping và Việt Nam Cộng Hòa khẳng định tuyên bố chủ quyền của họ trên Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1956.[5] Vào tháng 9 năm 1973, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã chiếm một số đảo của cả hai quần đảo nhưng sau đó để mất Hoàng Sa về tay Trung Quốc sau một cuộc chạm trán ngắn vào tháng 01 năm 1974. Nước Việt Nam thống nhất sau đó đã tiếp nối tuyên bố chủ quyền của Việt Nam tuy nhi ên vị thế của họ đã bị thương tổn do sự ủng hộ của Bắc Việt trước đó đối với tuyên bố của Trung Quốc vào năm 1956 và 1958, dưới hình thức bức thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Quốc Vụ Viện Trung Quốc.[6] Tuyên bố chủ quyền gần đây nhất với Biển Đông là của Malaysia vào năm 1979 và của Brunei vào năm 2000 dựa trên việc kéo dài thềm lục địa và trên cơ sở vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí từ đó tính ra. Tuyên bố của Malaysia đã trùng toàn bộ lên phần tuyên bố của Brunei. Khả năng khai thác dầu khí và sự can dự của các công ty dầu khí đa quốc gia Khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa lần đầu tiên diễn ra vào tháng 03 năm 1988, khi đó Hải Quân Trung Quốc đánh chìm ba tàu vận tải của Việt Nam và sát hại 72 binh sĩ Việt Nam trong một va chạm ng ắn tại bãi Johnson.[7] Từ đó trở đi quần đảo Trường Sa đã được phát triển thành một ngư trường quan trọng cho Trung Quốc, Việt Nam và Philippines, còn các thăm dò ở vùng biển lân cận cũng cho thấy các ước tính về trữ lượng dầu to lớn. Tất cả các quốc gia hiện đang tranh chấp tại Trường Sa đều là những nước đã ký kết Công Ước Liên Hiệp Quốc về luật biển lần 3 (UNCLOS III) vốn cho phép thiết lập một vùng đặc quyền kinh tế có bề rộng là 200 hải lí kể từ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: