Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là một xu thế tất yếu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam không thể tách rời xu thế đó. Thị trường chứng khoán (TTCK) hình thành và phát triển sẽ cùng với thị trường tiền tệ tạo ra một thị trường tài chính vận hành có hiệu quả hơn, góp phần đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò của hệ thống ngân hàng trong việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam
Vai trò của hệ thống ngân hàng trong việc phát triển
thị trường chứng khoán ở Việt nam
TS. Phùng Khắc Kế
Phó Thống đốc NHNN
Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là một xu thế tất
yếu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam không thể tách
rời xu thế đó. Thị trường chứng khoán (TTCK) hình thành và phát triển
sẽ cùng với thị trường tiền tệ tạo ra một thị trường tài chính vận hành có
hiệu quả hơn, góp phần đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Chính vì vậy, trong đường lối phát triển kinh tế của
Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm cho giai đoạn 2001 - 2010 là tạo lập
đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý
kinh tế của Nhà nước về phát triển thị trường vốn và tiền tệ, nhất là thị
trường vốn trung và dài hạn; tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả
TTCK, từng bước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động kể cả việc thu
hút vốn nước ngoài.
Quán triệt chủ trương của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và Bộ
Tài chính đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan khắc phục những khó
khăn để đạt được mục tiêu cơ bản đề ra là thiết lập và đưa vào hoạt
động một TTCK có tổ chức từ thấp đến cao, từng bước hoàn thiện và
phát triển. Việc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước chuyển giao về Bộ Tài
chính vào đầu năm 2004 đã tạo thuận lợi để hoàn thiện khung pháp lý và
chính sách khuyến khích tham gia thị trường, phát triển hàng hoá và mở
rộng phạm vi thị trường giao dịch chứng khoán. Có thể nói sau gần 5
năm đi vào hoạt động, nhìn chung quy mô TTCK còn nhỏ, tổng giá trị
chứng khoán niêm yết đến hết tháng 3/2005 là khoảng 28.000 tỷ đồng,
chỉ chiếm khoảng 3,94% GDP của năm 2004, nhưng cũng đã cho thấy
hoạt động kinh doanh, cung cấp dịch vụ và đầu tư của các tổ chức tham
gia thị trường ngày càng tiến tới tính chuyên nghiệp hơn, góp phần cho
sự phát triển của TTCK trong tương lai.
Là một cấu thành của thị trường tài chính, sự phát triển của thị
trường chứng khoán sẽ kém bền vững nếu thiếu sự gắn kết với hệ
thống ngân hàng. Từ kinh nghiệm của nhiều nước đã cho thấy rằng,
“nếu thị trường chứng khoán là một cạnh cắt của thị trường tài chính, thì
các ngân hàng vừa là nền móng vừa là xi măng”1. Như vậy có thể thấy
hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, kết hợp và tác động với nhau cùng phát triển. Vai trò của hệ
thống ngân hàng trong sự phát triển thị trường chứng khoán được thể
hiện trên một số phương diện chủ yếu sau:
Thứ nhất, việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung
ương (NHTW) có tác động đến sự phát triển của thị trường chứng khoán
và ngược lại.
Thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán như hai bình thông
nhau trong sự luân chuyển vốn, lãi suất ngân hàng tăng hoặc giảm sẽ
ảnh hưởng đến giá chứng khoán giảm hoặc tăng, cũng như ảnh hưởng
đến dòng luân chuyển vốn (capital flow) : vốn được chuyển từ TTCK
sang thị trường tiền tệ hoặc ngược lại. Trong khi đó sự biến động của
lãi suất trên thị trường tiền tệ chịu tác động nhiều bởi các giải pháp điều
hành công cụ chính sách tiền tệ của NHTW. Do đó nếu chính sách tiền
tệ duy trì được lãi suất thị trường tiền tệ ổn định sẽ là điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của thị trường chứng khoán. Ngược lại, thị trường
chứng khoán phát triển chính là kênh cung cấp thông tin nhạy bén, phản
ánh chính xác hoạt động kinh tế cho NHTW, qua đó giúp NHTW đưa ra
các giải pháp điều hành CSTT phù hợp, nâng cao năng lực điều tiết tiền
tệ, hiệu quả điều hành CSTT.
Thêm vào đó, thị trường chứng khoán phát triển còn tạo thêm
những công cụ mới, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại có thể
mở rộng khả năng tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ. Điều này
thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, đồng thời hỗ trợ NHTW thực hiện
tốt vai trò điều tiết tiền tệ thông qua các công cụ CSTT, nhất là thông
qua nghiệp vụ thị trường mở. Việc mua, bán chứng khoán của NHNN
với các NHTM sẽ có tác dụng mở rộng hay thu hẹp khối lượng tiền tệ
trong lưu thông, qua đó mà khối lượng tiền tệ được điều tiết theo mục
tiêu đã định.
Thực tế, từ năm 2003, thực hiện Lụât sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật NHNN, bên cạnh các giấy tờ có giá ngắn hạn, Ngân hàng
Nhà nước đã cho phép sử dụng cả các giấy tờ có giá dài hạn như các trái
phiếu Chính phủ trong các giao dịch ngắn hạn trên thị trường tiền tệ.
Với việc mở rộng chủng loại giấy tờ có giá sử dụng trong các giao dịch
1
ThÞ tr êng chøng kho¸n, Nhµ xuÊt b¶n Thèng kª n¨m 2000
2
trên thị trường tiền tệ và nhất là trong các nghiệp vụ thị trường mở giữa
NHNN và các ngân hàng, lượng giấy tờ có giá do các NHTM nắm giữ có
thể sử dụng trong nghiệp vụ thị trường mở với NHNN đã tăng lên đáng
kể, qua đó tạo điều kiện cho NHNN nâng cao khả năng điều tiết tiền tệ.
Tuy nhiên, về tổng thể mức độ tác động qua lại giữa thị trường
tiền tệ và thị trường chứng khoán ở Việt nam còn chưa rõ nét do thị
trường tiền tệ vẫn đang còn ở mức thấp và quy mô của TTCK còn khá
nhỏ (tổng giá trị vốn hoá thị trường của cổ phiếu chiếm khoảng 0,83%
tổng vốn huy động và khoảng 0,80% tổng vốn cho vay của hệ thống
ngân hàng). Năm 2004, mặc dù giá trị giao dịch trái phiếu tăng cao nhưng
tổng giá trị tham gia trái phiếu của các NHTM (bao gồm cả bảo lãnh và
đấu thầu) chiếm 1,28% tổng vốn huy động và 1,23% tổng vốn cho vay
của hệ thống ngân hàng nên tác động của TTCK đến hoạt động ngân
hàng còn rất hạn chế.
DiÔ biÕ chØsè VN-I ndex vµ l· i suÊt huy ®éng 12 th¸ ng n¨ m 2004
n n PhÇn tr¨ m (%)
§ iÓm
300 7,80
250 ...