Vai trò của luật sư trong hoạt động công nghệ thông tin
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 187.34 KB
Lượt xem: 21
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Luật sư là một nghề mới xuất hiện ở nước ta, cũng như kỹ sư Tin học. Ðó cũng là điều dễ hiểu cho mỗi ngành nghề đang phải cố gắng khẳng định vị trí của mình trong xã hội, nói chi đến những khó khăn cản trở, khách quan lẫn chủ quan, trong liên kết hợp tác, làm việc chung với nhau, tuy trong thực tế đã có một số luật sư hoặc công ty luật nhận trợ giúp pháp lý cho vài công ty kinh doanh CNTT.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò của luật sư trong hoạt động công nghệ thông tin Vai trò của luật sư trong hoạt động công nghệ thông tin Luật sư là một nghề mới xuất hiện ở nước ta, cũng như kỹ sư Tin học. Ðó cũng là điều dễ hiểu cho mỗi ngành nghề đang phải cố gắng khẳng định vị trí của mình trong xã hội, nói chi đến những khó khăn cản trở, khách quan lẫn chủ quan, trong liên kết hợp tác, làm việc chung với nhau, tuy trong thực tế đã có một số luật sư hoặc công ty luật nhận trợ giúp pháp lý cho vài công ty kinh doanh CNTT. Trong một thời gian dài, ngành tư pháp nước ta cũng chỉ có chức danh bào chữa viên nhân dân. Phải chờ đến cuối năm 1987, Hội đồng Nhà nước công bố Pháp lệnh tổ chức Luật sư. Sau một thời gian hoạt động, có thêm kinh nghiệm thực tiễn, cũng như tham khảo thêm ngành nghề luật sư ở các nước, Bộ Tư pháp đã đệ trình Quốc Hội thông qua một văn kiện tiến bộ hơn, Pháp lệnh Luật sư năm 2001. Tuy trong Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987 và Pháp lệnh Luật sư 2001, Luật sư có quyền bào chữa cho bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn và bị đơn khi tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện theo uỷ quyền và làm các dịch vụ pháp lý khác cho các cá nhân và tổ chức, nhưng xã hội vẫn chú ý nhiều đến quyền bào chữa của luật sư hơn. Luật sư của Pháp cũng vậy, mãi đến năm 1990, nghề tư vấn pháp lý mới được sát nhập vào nghề luật sư bào chữa trước Tòa án, trong khi luật sư Mỹ có thể hoạt động ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ðó cũng do xuất phát điểm từ công tác đào tạo. Sinh viên Luật của ta sau khi rời ghế nhà trường phổ thông là thi tuyển vào trường đại học Luật. Còn những người muốn theo học trường Luật ơ? Mỹ để có bằng JD (tối thiểu 3 năm – tương đương với thạc sĩ Luật của ta) phải tốt nghiệp tối thiểu là bậc cử nhân của một ngành khoa học, tự nhiên hay xã hội, của đại học Mỹ, sau đó phải trúng tuyển kỳ thi vào Ðoàn Luật sư của Bang (State Bar), thì mới được công nhận là Luật sư, nhưng chỉ được bào chữa trong hệ thống Tòa án của Bang đó, dĩ nhiên là trước các Tòa án liên bang. Vì vậy, Luật sư Mỹ có mặt khắp mọi ngành nghề, được trọng dụng và làm việc rất có hiệu quả trong các doanh nghiệp, đặc biệt các ngành công nghệ cao và mới, như CNTT. Cụ thể là ngoài văn bằng JD, trường luật Santa Clara, UC Berkeley, Stanford cấp thêm cho sinh viên chứng chỉ luật công nghệ cao (Hi-tech law certificate) nếu sinh viên chọn học 2/3 các chứng chỉ gồm các môn liên quan đến CNTT và Sở hữu Trí tuệ (chủ yếu là luật sáng chế – Patent law). Trường Luật của ta hiện nay cũng đã có những kỹ sư, bác sĩ, giáo viên … đăng ký học luật, nhưng hầu hết không chọn lựa hành nghề luật sư, hỏi ra là để mở mang kiến thức, hỗ trợ cho nghề hoạt động chính . Vậy bằng chừng ấy kiến thức về pháp luật, Luật sư ta có thể giúp đỡ pháp lý cho hoạt động CNTT không, đặc biệt là các doanh nghiệp CNTT? Thưa vẫn có thể. Tất nhiên bản thân người luật sư cũng phải mong muốn và nỗ lực tìm hiểu đặc tính riêng biệt của ngành nghề mà mình sẽ giúp đỡ pháp lý, miễn là doanh nghiệp sẵn sàng chia sẻ hiểu biết chuyên môn và không đòi hỏi luật sư phải thủ đắc kiến thức như một chuyên viên trong ngành mình. Vốn liếng cơ bản của luật sư là về các quy phạm pháp luật nội dung (substantive laws) và quy phạm pháp luật về thủ tục (procedural laws). Chừng ấy cũng đủ để khởi đầu công việc với các doanh nghiệp. Có doanh nghiệp nào không bước vào thương trường mà không phải qua thủ tục khai sinh cho tổ chức của mình? Có những lúc doanh nghiệp cần phải đàm phán, ký kết hợp đồng – có luật sư giúp đỡ pháp lý thì vẫn hơn nhiều, vì sẽ tránh những rủi ro. Kể cả lúc cần phải chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp, nếu có ý kiến của luật sư, để tránh tổn thất lớn, chứ không phải chỉ nhờ luật sư làm thủ tục giải thể công ty. Thậm chí, một khi hiểu được vai trò của công nghệ, luật sư có thể phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp, liên kết cùng với các doanh nghiệp khác, để đề xuất lên cơ quan quản lý nhà nước sớm có những chính sách, những quy định sao cho phù hợp, hỗ trợ cho sự phát triển của CNTT nước ta. Ðó là chưa tính đến việc liên quan đến quyền nhân thân của các thành viên trong một công ty. Doanh nhân không nhất thiết phải biết tất cả các qui định pháp luật, dù rằng văn bản luật một khi đã ban hành, thì xem như mọi người đều phải biết. Luật sư buộc phải biết thay cho khách hàng của mình. Vì vậy, Pháp lệnh Luật sư 2001 có qui định ở điều 23 khoản c: Văn phòng luật sư phải bồi thường thiệt hại do lỗi mà luật sư của mình gây ra cho khách hàng trong khi thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác. Cũng do vậy mà Pháp lệnh buộc luật sư phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp (khoản d điều 23). Thực tiển sinh động cho thấy có môn luật về CNTT, máy tính, Internet … tại một số trường luật ở Mỹ khi xảy ra sự phát triển ngoạn mục của ngành CNTT trong những năm qua. Năm 1999, người viết tìm đến trường luật Santa Clara trong thung lũng điện tử của vùng Vịnh San Francisco, nghe giáo sư Gevaise Davis giảng môn Computer and Internet law. Thầy nói môn học mới này nhằm khảo cứu các lĩnh vực chủ yếu của luật nội dung đang tác động hoặc tương tác với các doanh nghiệp và cá nhân trong công nghiệp máy tính và Internet. Môn học không khảo sát sâu vào từng lĩnh vực luật nội dung, mà nhằm chỉ ra những liên hệ giữa chúng, trên hết là thấy phát sinh những vấn đề mới trong giao dịch có thể đòi hỏi những cách suy nghĩ giải quyết ngoài qui phạm sẵn có. Giáo sư Eric Goldman dạy môn luật không gian điều khiển (cyberspace law) lại vui vẻ tuyên bố với các sinh viên là ông chỉ là lính mới đối với ngành Tin học trong khi không ít sinh viên là kỹ sư phần mềm phần cứng đang làm việc trong các công ty nổi tiếng trong vùng như Nortel, Oracle, HP, Cisco …. Thế mà các vụ án điển hình thầy giới thiệu có liên quan đến Microsoft, Gateway 2000, Hotmail, Panavision … là những dẫn chứng mang tính thời sự rất hấp dẫn, suy ra rất có lợi cho sinh viên sau này khi ra trường – lớp học lúc nào cũng chật cứng người, tuy giờ giấc xem ra cũng khá bất tiện (7g- 10g tối). Chân thành mà nói, Hội ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò của luật sư trong hoạt động công nghệ thông tin Vai trò của luật sư trong hoạt động công nghệ thông tin Luật sư là một nghề mới xuất hiện ở nước ta, cũng như kỹ sư Tin học. Ðó cũng là điều dễ hiểu cho mỗi ngành nghề đang phải cố gắng khẳng định vị trí của mình trong xã hội, nói chi đến những khó khăn cản trở, khách quan lẫn chủ quan, trong liên kết hợp tác, làm việc chung với nhau, tuy trong thực tế đã có một số luật sư hoặc công ty luật nhận trợ giúp pháp lý cho vài công ty kinh doanh CNTT. Trong một thời gian dài, ngành tư pháp nước ta cũng chỉ có chức danh bào chữa viên nhân dân. Phải chờ đến cuối năm 1987, Hội đồng Nhà nước công bố Pháp lệnh tổ chức Luật sư. Sau một thời gian hoạt động, có thêm kinh nghiệm thực tiễn, cũng như tham khảo thêm ngành nghề luật sư ở các nước, Bộ Tư pháp đã đệ trình Quốc Hội thông qua một văn kiện tiến bộ hơn, Pháp lệnh Luật sư năm 2001. Tuy trong Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987 và Pháp lệnh Luật sư 2001, Luật sư có quyền bào chữa cho bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn và bị đơn khi tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện theo uỷ quyền và làm các dịch vụ pháp lý khác cho các cá nhân và tổ chức, nhưng xã hội vẫn chú ý nhiều đến quyền bào chữa của luật sư hơn. Luật sư của Pháp cũng vậy, mãi đến năm 1990, nghề tư vấn pháp lý mới được sát nhập vào nghề luật sư bào chữa trước Tòa án, trong khi luật sư Mỹ có thể hoạt động ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ðó cũng do xuất phát điểm từ công tác đào tạo. Sinh viên Luật của ta sau khi rời ghế nhà trường phổ thông là thi tuyển vào trường đại học Luật. Còn những người muốn theo học trường Luật ơ? Mỹ để có bằng JD (tối thiểu 3 năm – tương đương với thạc sĩ Luật của ta) phải tốt nghiệp tối thiểu là bậc cử nhân của một ngành khoa học, tự nhiên hay xã hội, của đại học Mỹ, sau đó phải trúng tuyển kỳ thi vào Ðoàn Luật sư của Bang (State Bar), thì mới được công nhận là Luật sư, nhưng chỉ được bào chữa trong hệ thống Tòa án của Bang đó, dĩ nhiên là trước các Tòa án liên bang. Vì vậy, Luật sư Mỹ có mặt khắp mọi ngành nghề, được trọng dụng và làm việc rất có hiệu quả trong các doanh nghiệp, đặc biệt các ngành công nghệ cao và mới, như CNTT. Cụ thể là ngoài văn bằng JD, trường luật Santa Clara, UC Berkeley, Stanford cấp thêm cho sinh viên chứng chỉ luật công nghệ cao (Hi-tech law certificate) nếu sinh viên chọn học 2/3 các chứng chỉ gồm các môn liên quan đến CNTT và Sở hữu Trí tuệ (chủ yếu là luật sáng chế – Patent law). Trường Luật của ta hiện nay cũng đã có những kỹ sư, bác sĩ, giáo viên … đăng ký học luật, nhưng hầu hết không chọn lựa hành nghề luật sư, hỏi ra là để mở mang kiến thức, hỗ trợ cho nghề hoạt động chính . Vậy bằng chừng ấy kiến thức về pháp luật, Luật sư ta có thể giúp đỡ pháp lý cho hoạt động CNTT không, đặc biệt là các doanh nghiệp CNTT? Thưa vẫn có thể. Tất nhiên bản thân người luật sư cũng phải mong muốn và nỗ lực tìm hiểu đặc tính riêng biệt của ngành nghề mà mình sẽ giúp đỡ pháp lý, miễn là doanh nghiệp sẵn sàng chia sẻ hiểu biết chuyên môn và không đòi hỏi luật sư phải thủ đắc kiến thức như một chuyên viên trong ngành mình. Vốn liếng cơ bản của luật sư là về các quy phạm pháp luật nội dung (substantive laws) và quy phạm pháp luật về thủ tục (procedural laws). Chừng ấy cũng đủ để khởi đầu công việc với các doanh nghiệp. Có doanh nghiệp nào không bước vào thương trường mà không phải qua thủ tục khai sinh cho tổ chức của mình? Có những lúc doanh nghiệp cần phải đàm phán, ký kết hợp đồng – có luật sư giúp đỡ pháp lý thì vẫn hơn nhiều, vì sẽ tránh những rủi ro. Kể cả lúc cần phải chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp, nếu có ý kiến của luật sư, để tránh tổn thất lớn, chứ không phải chỉ nhờ luật sư làm thủ tục giải thể công ty. Thậm chí, một khi hiểu được vai trò của công nghệ, luật sư có thể phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp, liên kết cùng với các doanh nghiệp khác, để đề xuất lên cơ quan quản lý nhà nước sớm có những chính sách, những quy định sao cho phù hợp, hỗ trợ cho sự phát triển của CNTT nước ta. Ðó là chưa tính đến việc liên quan đến quyền nhân thân của các thành viên trong một công ty. Doanh nhân không nhất thiết phải biết tất cả các qui định pháp luật, dù rằng văn bản luật một khi đã ban hành, thì xem như mọi người đều phải biết. Luật sư buộc phải biết thay cho khách hàng của mình. Vì vậy, Pháp lệnh Luật sư 2001 có qui định ở điều 23 khoản c: Văn phòng luật sư phải bồi thường thiệt hại do lỗi mà luật sư của mình gây ra cho khách hàng trong khi thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác. Cũng do vậy mà Pháp lệnh buộc luật sư phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp (khoản d điều 23). Thực tiển sinh động cho thấy có môn luật về CNTT, máy tính, Internet … tại một số trường luật ở Mỹ khi xảy ra sự phát triển ngoạn mục của ngành CNTT trong những năm qua. Năm 1999, người viết tìm đến trường luật Santa Clara trong thung lũng điện tử của vùng Vịnh San Francisco, nghe giáo sư Gevaise Davis giảng môn Computer and Internet law. Thầy nói môn học mới này nhằm khảo cứu các lĩnh vực chủ yếu của luật nội dung đang tác động hoặc tương tác với các doanh nghiệp và cá nhân trong công nghiệp máy tính và Internet. Môn học không khảo sát sâu vào từng lĩnh vực luật nội dung, mà nhằm chỉ ra những liên hệ giữa chúng, trên hết là thấy phát sinh những vấn đề mới trong giao dịch có thể đòi hỏi những cách suy nghĩ giải quyết ngoài qui phạm sẵn có. Giáo sư Eric Goldman dạy môn luật không gian điều khiển (cyberspace law) lại vui vẻ tuyên bố với các sinh viên là ông chỉ là lính mới đối với ngành Tin học trong khi không ít sinh viên là kỹ sư phần mềm phần cứng đang làm việc trong các công ty nổi tiếng trong vùng như Nortel, Oracle, HP, Cisco …. Thế mà các vụ án điển hình thầy giới thiệu có liên quan đến Microsoft, Gateway 2000, Hotmail, Panavision … là những dẫn chứng mang tính thời sự rất hấp dẫn, suy ra rất có lợi cho sinh viên sau này khi ra trường – lớp học lúc nào cũng chật cứng người, tuy giờ giấc xem ra cũng khá bất tiện (7g- 10g tối). Chân thành mà nói, Hội ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Vai trò của luật sư hoạt động công nghệ thông tin bản luận cứ luật sư kỹ năng hành nghề luật kỹ năng luật sư cẩm nang cho luật sưGợi ý tài liệu liên quan:
-
Kỹ năng của luật sư trong vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
16 trang 178 0 0 -
23 trang 45 0 0
-
Bài giảng Kỹ năng lập luận và tranh luận - Học viện tư pháp
22 trang 36 0 0 -
Trao đổi một số vấn đề về kỹ năng của luật sư khi tham gia giải quyết vụ án hình sự
5 trang 32 0 0 -
31 trang 29 0 0
-
Bài giảng Kỹ năng đàm phán ký kết và giải quyết tranh chấp hợp đồng
104 trang 28 0 0 -
Luật sư – Nghề được xã hội trọng vọng
3 trang 28 0 0 -
Hợp tác quốc tế về đào tạo nghề luật sư tại Việt Nam - nhìn lại và hướng tới
5 trang 24 0 0 -
Bài giảng Tổng quan về luật sư và nghề luật sư
22 trang 24 0 0 -
Kỹ năng đàm phán hợp đồng thương mại quốc tế
9 trang 24 0 0