Danh mục

Vấn đề tên gọi và chủ quyền quốc gia trên vùng biển đông

Số trang: 16      Loại file: pdf      Dung lượng: 438.86 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: 17,000 VND Tải xuống file đầy đủ (16 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ý nghĩa đề tài: Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là một quốc gia độc lập, có nền văn hiến lâu đời và đang phát triển ở vùng Đông Nam Á. Diện tích chung toàn vùng lãnh thổ của Việt Nam là 329.314,5km2, dân số 82.032.300 người, mật độ trung bình trong cả nước là 249 người/km2 (số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2004). Lãnh thổ Việt Nam gồm có vùng núi, vùng trung du và đồng bằng, vùng biển, hải đảo và vùng trời. Phía Bắc, Việt Nam tiếp giáp với nước...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vấn đề tên gọi và chủ quyền quốc gia trên vùng biển đông Vấn đề tên gọi và chủ quyền quốc gia trên vùng biển đôngI. Ý nghĩa đề tài:Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là một quốc gia độc lập, có nền vănhiếnlâu đời và đang phát triển ở vùng Đông Nam Á. Diện tích chung toàn vùng lãnhthổ của Việt Nam là 329.314,5km2, dân số 82.032.300 người, mật độ trung bìnhtrong cả nước là 249 người/km2 (số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2004). Lãnhthổ Việt Nam gồm có vùng núi, vùng trung du và đồng bằng, vùng biển, hải đảovà vùng trời. Phía Bắc, Việt Nam tiếp giáp với nước Cộng hòa Nhân dân TrungHoa và có đường biên giới chạy dài 1.150km. Về phía Tây, nước Việt Nam tiếpgiáp nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân dân Lào và có 1.650km đường biên giới vớinước này. Phía Tây Nam, Việt Nam tiếp giáp với lãnh thổ của Vương quốcCampuchia, có chiều dài 1.137km đường biên giới chung. Bờ biển của Việt Namkể từ biên giới Việt-Trung cho đến biên giới Việt-Campuchia dài khoảng3.260km. Nếu tính cả bờ biển các đảo và quần đảo trên biển Đông thì chiều dàinày còn lớn hơn nhiều, khiến Việt Nam có độ dài bờ biển lớn hơn Thailand, ngangbằng với Malaysia và đứng đầu các nước ở bán đảo Trung Ấn. Theo Công ướcQuốc tế, mỗi quốc gia có quyền ấn định lãnh hải của mình là 12 hải lý kể từ đườngcơ sở, vùng tiếp giáp lãnh hải rộng 12 hải lý và vùng đặc quyền kinh tế được quyđịnh với chiều rộng là 200 hải lý. Thềm lục địa cũng được tính cho đến 200 hải lý.Như vậy, Việt Nam có chủ quyền trên một vùng biển khá rộng lớn, khoảng 1 triệukm2 ở biển Đông .Vùng biển Việt Nam hiện nay tiếp giáp với ranh giới, lãnh hảicủa tám quốc gia: Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Malaysia, Brunei,Campuchia, Thailand và Singapore.Việt Nam có vùng trời bao trùm trên đất liền được xác định bằng các đường biêngiớivà trên biển là ranh giới phía ngoài lãnh hải và không gian của các hải đảo. ĐiểmcựcBắc trên đất liền của Việt Nam nằm ở vĩ độ 23o23’ Bắc, kinh độ 105o20’ Đôngthuộchuyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Điểm cực Nam trên đất liền của Việt Nam đượcxácđịnh ở địa điểm xóm Mũi, Rạch Tàu, tỉnh Cà Mau, thuộc vĩ độ 8o34’ Bắc, kinh độ104o40’ Đông. Điểm cực Đông nằm ở vĩ độ 20o40’ Bắc, kinh độ 109o24’ Đôngthuộcbán đảo Hòn Khói, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Điểm cực Tây được xácđịnh tại vĩ độ 22o22’ Bắc, kinh độ 102o10’ Đông, thuộc vùng núi Pulasan, huyệnMường Tè, tỉnh Lai Châu.Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, trên vòng cung châu Á – TháiBình Dương. Đây là vùng kinh tế đang được phát triển và sẽ là vùng kinh tế pháttriển nhất trong thế kỷ XXI. Mặt khác, Việt Nam nằm gần đường hàng hải quốc tếnối liền các quốc gia ở miền Tây Á và Nam Á với các nước ở miền Đông Á vàBắc Á. Vị trí địa lý này tạo nên những tiềm lực phát triển cho Việt Nam trongtương lai, giúp cho chính sách đối ngoại đa phương và đường lối kinh tế mở cóđiều kiện nhanh chóng trở thành hiện thực để đạt tới một nước Việt Nam thịnhvượng.Với những điều kiện thuận lợi như thế để đưa Việt Nam trên đường phát triểnnhưng“Tranh chấp của quyền lãnh thổ, nhất là lãnh hải là một thách thức lớn của khuvực, trong khi đó, an ninh trên biển là điểm yếu của khu vực này”, đó là đánh giácủa Hội nghị bàn tròn Chân Á Thái Bình Dương lần thứ VIII (06 – 08-06/1994 tạiKula Lumpur,Malaysia) với chủ đề “Xây dựng lòng tin và giảm xung đột ở Thái Bình Dương”Trong việc tranh chấp chủ quyền lãnh hải mà đặc biệt là hai khu vực quần đảoHoàng Sa và Trường Sa trong biển Đông hiện nay tuy chưa phải là cơn bùng phátdữ dội đe dọa đến nền hòa bình và an ninh khu vực Đông Nam Á, nhưng đây làđiểm nóng âm ỉ mà khả năng “có thể có” xảy ra trong tương lai.Trong tình hình đó, tên gọi chỉ khu vực Biển Đông ở Đông Nam Á giữa các nướclại không thống nhất.Việt Nam gọi là Biển Đông, Trung Quốc gọi là Nam Hải(南海) và têngọi quốc tế lại là Biển Nam Trung Hoa (South China sea).Những cách gọi này dễgây ra ngộ nhận về vấn đề chủ quyền quốc gia ở biển Đông.Chính vì vậy để góp phần tìm hiểu những vấn đề trên biển Đông cũng như nhữngvấnđề liên quan đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng tôi đã chọn đềtài“Vấn đề tên gọi và chủ quyền quốc gia trên vùng Biển Đông” làm đề tài nghiêncứu khoa học cấp trường năm 2005.Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 3 chương sau đây:- Chương I: Tổng quan về Biển Đông- Chương II: Vấn đề chủ quyền của Việt Nam trên vùng Biển Đông- Chương III: Tên gọi biển Đông trong khu vực Đông Nam Á.Đây là một đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường nên chúng tôi chỉ giới hạn nộidung nghiên cứu trong 3 chuơng kể trên. Trong tương lai, nếu được nâng cấp đềtàichúng tôi sẽ đi sâu vào phần luật pháp quốc tế liên quan đến vấn đề chủ quyềnlãnhthổ, lãnh hải nhất là khu vực biển.II.Phần nội dung:Qua khảo sát, tổng cộng 20.713 bản đồ, trong đó:- 11.900 bản đồ có liên quan đến Trung Quốc.- 7.640 bản đồ có liên quan đến Việt Nam.- 738 bản đồ có liên quan đến khu vực Đông Nam Á.- 117 bản đồ có liên quan đến biển ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: