Vận dụng mô hình Modified - Jones nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 506.58 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu này thực hiện kiểm định sự phù hợp của mô hình Jones cải tiến tại Việt Nam. Qua đó, vận dụng mô hình này để nhận diện xu hướng điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý các công ty niêm yết tại Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vận dụng mô hình Modified - Jones nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8 (33) - Thaùng 10/2015 Vận dụng mô hình Modified - Jones nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam Using the Modified – Jonesmodel research earnings management behavior of the listed companies in Viet Nam TS. Nguyễn Anh Hiền Trường Đại học Sài Gòn Ph.D. Nguyen Anh Hien Sai Gon University Tóm tắt Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều mô hình khác nhau để nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý. Trong đó, mô hình Jones cải tiến (Modified-Jones model) của Dechow, Sloan và Sweeney (1995) được nhiều nhà nghiên cứu vận dụng. Nghiên cứu này thực hiện kiểm định sự phù hợp của mô hình Jones cải tiến tại Việt Nam. Qua đó, vận dụng mô hình này để nhận diện xu hướng điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý các công ty niêm yết tại Việt Nam. Từ khóa: điều chỉnh lợi nhuận, mô hình Jones cải tiến, hành vi điều chỉnh lợi nhuận, mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận, điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý… Abstract The researchers came up with many different models to identify earnings management behavior. In particular, Modified-Jones model of Dechow, Sloan and Sweeney (1995) was applied by many researchers. This study conducted to test the suitability of the Modified-Jones model in Viet Nam. Thereby, using this model to identify trend in earnings management of managers of the listed companies in Viet Nam. Keywords: earnings management, Modified-Jones model, earnings management behavior, model for earnings management behavior, earnings management of managers… 1. Đặt vấn đề trình nhưng nhìn chung vẫn chưa giải tỏa Thông tin lợi nhuận trên báo cáo tài được tâm lý lo lắng của nhà đầu tư. Các chính (BCTC) là thông tin được nhà đầu tư nhà đầu tư luôn muốn biết tiền của mình quan tâm nhiều nhất và cũng là thông tin được sử dụng như thế nào và kết quả hoạt mà nhà quản lý có xu hướng tác động vào động kinh doanh thật sự của công ty. Tuy nhiều nhất. Trong những năm gần đây, với nhiên, sự tách biệt giữa chủ sở hữu (nhà việc một loạt các công ty niêm yết công bố đầu tư) và nhà quản lý trong mô hình công kết quả kinh doanh thay đổi giữa trước và ty cổ phần đã dẫn đến việc xung đột lợi ích sau kiểm toán đã gây nhiều lo lắng cho nhà giữa chủ sở hữu và nhà quản lý. Trong khi đầu tư và các cơ quan quản lý. Mặc dù, sau chủ sở hữu muốn biết nhiều thông tin liên đó theo yêu cầu của Sở giao dịch chứng quan đến doanh nghiệp thì nhà quản lý lại khoán, các đơn vị này đã có văn bản giải có xu hướng hạn chế cung cấp thông tin 26 hoặc cung cấp thông tin có độ tin cậy thấp. điều chỉnh khi sử dụng nguyên tắc cơ sở Do đó, nhà đầu tư cũng như các nhà nghiên dồn tích trong kế toán. Trên lý thuyết, cứu gần như bị động trước các thông tin do nguyên tắc cơ sở dồn tích nhằm đảm bảo các công ty niêm yết cung cấp. doanh nghiệp phản ánh đúng doanh thu, chi Trước thực tế đó, các nhà nghiên cứu phí trong kỳ và lợi nhuận được phản ánh đã xem xét đưa ra các mô hình để nhận một cách trung thực và hợp lý. Trong thực diện và đo lường hành vi điều chỉnh lợi tế, nguyên tắc này có thể bị lợi dụng để thực nhuận của nhà quản lý. Trên thế giới đã có hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận như ghi nhiều mô hình nhận diện hành vi điều nhận doanh thu khi chưa phát sinh nghiệp chỉnh lợi nhuận, trong đó nổi tiếng nhất là vụ bán hàng, cung cấp dịch vụ hoặc sử dụng mô hình Jones cải tiến của Dechow, Sloan việc trích lập các khoản dự phòng, chi phí và Sweeney (1995) nhưng liệu mô hình phải trả, phân bổ chi phí trả trước nhằm gia này có phù hợp khi áp dụng cho các công tăng hay giảm bớt chi phí trong kỳ. ty niêm yết tại Việt Nam? Do đó, các nghiên cứu trên thế giới Để trả lời cho câu hỏi này, nhóm đều cho rằng hành vi điều chỉnh lợi nhuận nghiên cứu đã thực hiện kiểm định mức độ của các công ty xuất phát từ các khoản lợi phù hợp của mô hình Jones cải tiến của nhuận dồn tích hay còn gọi là các khoản Dechow, Sloan và Sweeney (1995). Qua đó, dồn tích trong lợi nhuận (total accrual nhận diện xu hướng điều chỉnh lợi nhuận earnings viết tắt là TA). TA còn được gọi của các công ty niêm yết tại Việt Nam. tắt là biến kế toán dồn tích. 2. Cơ sở lý thuyết Khoản dồn tích trong lợi nhuận (TA) Trong các mô hình nhận diện hành vi được tính bằng cách lấy tổng lợi nhuận kế điều chỉnh lợi nhuận công bố ở nước ngoài, toán sau thuế trừ lưu chuyển tiền thuần từ các tác giả đã dựa trên nguyên tắc cơ sở hoạt động kinh doanh: dồn tích của kế toán để chia lợi nhuận TA = Lợi nhuận sau thuế – dòng tiền trong kỳ của doanh nghiệp thành hai loại là thuần hoạt động kinh doanh lợi nhuận bằng tiền (cash earnings) và lợi Tuy nhiên, không thể sử dụng biến TA nhuận dồn tích (accrual earnings). Trong để đo lường mức độ điều chỉnh lợi nhuận đó, lợi nhuận bằng tiền hình thành từ các một cách trực tiếp do trong đó có các khoản doanh thu và chi phí bằng tiền mà khoản dồn tích phù hợp với tình hình kinh doanh nghiệp đã thu và chi trong kỳ. Riêng doanh thực tế của doanh nghiệp như các lợi nhuận dồn tí ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vận dụng mô hình Modified - Jones nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8 (33) - Thaùng 10/2015 Vận dụng mô hình Modified - Jones nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam Using the Modified – Jonesmodel research earnings management behavior of the listed companies in Viet Nam TS. Nguyễn Anh Hiền Trường Đại học Sài Gòn Ph.D. Nguyen Anh Hien Sai Gon University Tóm tắt Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều mô hình khác nhau để nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý. Trong đó, mô hình Jones cải tiến (Modified-Jones model) của Dechow, Sloan và Sweeney (1995) được nhiều nhà nghiên cứu vận dụng. Nghiên cứu này thực hiện kiểm định sự phù hợp của mô hình Jones cải tiến tại Việt Nam. Qua đó, vận dụng mô hình này để nhận diện xu hướng điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý các công ty niêm yết tại Việt Nam. Từ khóa: điều chỉnh lợi nhuận, mô hình Jones cải tiến, hành vi điều chỉnh lợi nhuận, mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận, điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý… Abstract The researchers came up with many different models to identify earnings management behavior. In particular, Modified-Jones model of Dechow, Sloan and Sweeney (1995) was applied by many researchers. This study conducted to test the suitability of the Modified-Jones model in Viet Nam. Thereby, using this model to identify trend in earnings management of managers of the listed companies in Viet Nam. Keywords: earnings management, Modified-Jones model, earnings management behavior, model for earnings management behavior, earnings management of managers… 1. Đặt vấn đề trình nhưng nhìn chung vẫn chưa giải tỏa Thông tin lợi nhuận trên báo cáo tài được tâm lý lo lắng của nhà đầu tư. Các chính (BCTC) là thông tin được nhà đầu tư nhà đầu tư luôn muốn biết tiền của mình quan tâm nhiều nhất và cũng là thông tin được sử dụng như thế nào và kết quả hoạt mà nhà quản lý có xu hướng tác động vào động kinh doanh thật sự của công ty. Tuy nhiều nhất. Trong những năm gần đây, với nhiên, sự tách biệt giữa chủ sở hữu (nhà việc một loạt các công ty niêm yết công bố đầu tư) và nhà quản lý trong mô hình công kết quả kinh doanh thay đổi giữa trước và ty cổ phần đã dẫn đến việc xung đột lợi ích sau kiểm toán đã gây nhiều lo lắng cho nhà giữa chủ sở hữu và nhà quản lý. Trong khi đầu tư và các cơ quan quản lý. Mặc dù, sau chủ sở hữu muốn biết nhiều thông tin liên đó theo yêu cầu của Sở giao dịch chứng quan đến doanh nghiệp thì nhà quản lý lại khoán, các đơn vị này đã có văn bản giải có xu hướng hạn chế cung cấp thông tin 26 hoặc cung cấp thông tin có độ tin cậy thấp. điều chỉnh khi sử dụng nguyên tắc cơ sở Do đó, nhà đầu tư cũng như các nhà nghiên dồn tích trong kế toán. Trên lý thuyết, cứu gần như bị động trước các thông tin do nguyên tắc cơ sở dồn tích nhằm đảm bảo các công ty niêm yết cung cấp. doanh nghiệp phản ánh đúng doanh thu, chi Trước thực tế đó, các nhà nghiên cứu phí trong kỳ và lợi nhuận được phản ánh đã xem xét đưa ra các mô hình để nhận một cách trung thực và hợp lý. Trong thực diện và đo lường hành vi điều chỉnh lợi tế, nguyên tắc này có thể bị lợi dụng để thực nhuận của nhà quản lý. Trên thế giới đã có hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận như ghi nhiều mô hình nhận diện hành vi điều nhận doanh thu khi chưa phát sinh nghiệp chỉnh lợi nhuận, trong đó nổi tiếng nhất là vụ bán hàng, cung cấp dịch vụ hoặc sử dụng mô hình Jones cải tiến của Dechow, Sloan việc trích lập các khoản dự phòng, chi phí và Sweeney (1995) nhưng liệu mô hình phải trả, phân bổ chi phí trả trước nhằm gia này có phù hợp khi áp dụng cho các công tăng hay giảm bớt chi phí trong kỳ. ty niêm yết tại Việt Nam? Do đó, các nghiên cứu trên thế giới Để trả lời cho câu hỏi này, nhóm đều cho rằng hành vi điều chỉnh lợi nhuận nghiên cứu đã thực hiện kiểm định mức độ của các công ty xuất phát từ các khoản lợi phù hợp của mô hình Jones cải tiến của nhuận dồn tích hay còn gọi là các khoản Dechow, Sloan và Sweeney (1995). Qua đó, dồn tích trong lợi nhuận (total accrual nhận diện xu hướng điều chỉnh lợi nhuận earnings viết tắt là TA). TA còn được gọi của các công ty niêm yết tại Việt Nam. tắt là biến kế toán dồn tích. 2. Cơ sở lý thuyết Khoản dồn tích trong lợi nhuận (TA) Trong các mô hình nhận diện hành vi được tính bằng cách lấy tổng lợi nhuận kế điều chỉnh lợi nhuận công bố ở nước ngoài, toán sau thuế trừ lưu chuyển tiền thuần từ các tác giả đã dựa trên nguyên tắc cơ sở hoạt động kinh doanh: dồn tích của kế toán để chia lợi nhuận TA = Lợi nhuận sau thuế – dòng tiền trong kỳ của doanh nghiệp thành hai loại là thuần hoạt động kinh doanh lợi nhuận bằng tiền (cash earnings) và lợi Tuy nhiên, không thể sử dụng biến TA nhuận dồn tích (accrual earnings). Trong để đo lường mức độ điều chỉnh lợi nhuận đó, lợi nhuận bằng tiền hình thành từ các một cách trực tiếp do trong đó có các khoản doanh thu và chi phí bằng tiền mà khoản dồn tích phù hợp với tình hình kinh doanh nghiệp đã thu và chi trong kỳ. Riêng doanh thực tế của doanh nghiệp như các lợi nhuận dồn tí ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí Khoa học Điều chỉnh lợi nhuận Mô hình Jones cải tiến Hành vi điều chỉnh lợi nhuận Mô hình nhận diện hành vi Điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lýGợi ý tài liệu liên quan:
-
6 trang 299 0 0
-
Thống kê tiền tệ theo tiêu chuẩn quốc tế và thực trạng thống kê tiền tệ tại Việt Nam
7 trang 272 0 0 -
5 trang 234 0 0
-
10 trang 214 0 0
-
8 trang 209 0 0
-
Quản lý tài sản cố định trong doanh nghiệp
7 trang 208 0 0 -
Khảo sát, đánh giá một số thuật toán xử lý tương tranh cập nhật dữ liệu trong các hệ phân tán
7 trang 208 0 0 -
6 trang 205 0 0
-
Khách hàng và những vấn đề đặt ra trong câu chuyện số hóa doanh nghiệp
12 trang 202 0 0 -
9 trang 167 0 0