Văn hóa Nõ Nường: Cây rau rớn hay hoa văn Po me
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 193.91 KB
Lượt xem: 6
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Lâu nay trong nghiên cứu văn hóa dân gian, chúng ta chỉ nói đến yếu tố văn hóa hiện thực, mà từ bỏ, hoặc chỉ lướt qua yếu tố văn hóa tâm linh. Do đó, khi nghiên cứu văn hóa dân gian của người Thái ở Tây Bắc thường gặp những hiện vật biểu tượng văn hóa tâm linh, nhưng do muốn có sự gần với cuộc sống cho nên chúng ta đã coi những cổ vật ấy là loài hiện thực.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Văn hóa Nõ Nường: Cây rau rớn hay hoa văn Po me Văn hóa Nõ Nường: Cây rau rớn hay hoa văn Po me Trích cuốn “Văn hóa Nõ Nường” – Dương Đình Minh Sơn Lâu nay trong nghiên cứu văn hóa dân gian, chúng ta chỉ nói đến yếu tố văn hóa hiện thực, mà từ bỏ, hoặc chỉ lướt qua yếu tố văn hóa tâm linh. Do đó, khi nghiên cứu văn hóa dân gian của người Thái ở Tây Bắc thường gặp những hiện vật biểu tượng văn hóa tâm linh, nhưng do muốn có sự gần với cuộc sống cho nên chúng ta đã coi những cổ vật ấy là loài hiện thực. Chiếc “khau kút” dựng trên hai đầu nóc nhà, một biểu tượng độc đáo của ngôi nhà sàn, chỉ là vật có tác dụng nẹp gianh cho khỏi tốc mái khi bị gió bão, và “kút” là tên của cây guột ngoài rừng – một loại cây có ích trong đời sống con người. Hoặc ở một lĩnh vực khác như nét đặc trưng trong mùa Thái với động tác “nhún gối chân phải, rồi kéo sệt nhẹ bàn chân về đằng sau”. Đó là do người Thái đi trên nhà sàn, mặt sàn giát bằng tấm tre đập đập cho nên có bước đi nhún nhẩy mà thành nét đặc trưng trong động tác múa Thái, hoặc “kút piêu” (chùm hoa văn trang trí ở bốn góc chiếc khăn piêu đội đầu của phụ nữ Thái) cũng là hoa cây rau dớn – loại cây mọc dại ngoài mương, có thể làm rau luộc ăn v.v. Từ quan niệm đó dẫn đến việc gọi tên hoa văn (hình 1) cũng là cây rau dớn v.v… Cách nhận thức và gọi tên những hoa văn theo lối hiện thực này, đến sau 1975 vào nghiên cứu văn hóa dân gian ở vùng Tây Nguyên, người ta cũng gọi một loại hoa văn trên cây kơlao trong lễ hội bỏ mả của người Ba Na là hình cây rau dớn, người địa phương gọi là hoa văn kơ toanh. T.S Nguyễn Duy Thiệu – Viện Đông Nam Á cho tôi xem ảnh hoa văn cây rau dớn trên cây kơlao của vùng Tây Nguyên. Và ông cũng nói là nó không có gì gần gũi với cây rau dớn ngoài rừng cả. Hình 1 Loại cổ vật biểu tượng được gọi là cây rau dớn ấy mà chúng tôi gọi là hoa văn Po Me. Vậy cái hiện thực bên ngoài và ý tứ sâu kín mang yếu tố tâm linh bên trong của cổ vật nằm ở đâu? Đó là điều cần được làm sáng tỏ ở đề mục này. Mặc dù đây là loại hoa văn bình thường, nhưng ý nghĩa tâm linh của nó thì lớn lao vô cùng. Vì thế nếu tìm ra nội dung đích thực của nó, sẽ mở ra một hướng nhìn nhiều chiều hơn về những hoa văn biểu tượng âm dương và tượng nam nữ trên các cổ vật văn hóa tâm linh như trên nắp thạp đồng Đào Thịnh. Thực chất của hoa văn Po Me là thế nào? Để thấy rõ điều này, ta phải đi vào ba yếu tố: xuất xứ của hoa văn, mục đích sử dụng và ý nghĩa của nó. 1. Xuất xứ Trong bài “Po Me là cái Nõ Nường” – Tuần báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh số 131 (3/1994), chúng tôi viết: Trong ý niệm của người Thái ở Tây Bắc: “Po” là con đực có cái “núm” lòi ra; “Me” là con cái có cái “lỗ” lõm vào. Khi hai vật đó “lắp khít” nhau (như đôi cúc bấm) thì gọi là Po Me. Ở đây Po Me như một nguyên hợp Folklor. “Po” về sinh vật là con đực, về tính xã hội loài người là đàn ông, chồng, cha. “Me” về sinh vật là con cái, về tính xã hội loài người là đàn bà, vợ, mẹ. “Po Me” còn là ông bà, tổ tiên, bậc tiền bối và nguồn cội. Một thuật ngữ ra đời dựa trên yếu tố trực quan qua hiện vật (cái lòi ra, chố lõm vào) và hoạt động của hiện vật là lắp khít nhau hẳn loại thuật ngữ đó được ra đời sớm nhất trong ngôn ngữ của họ. Đúng vậy, nhờ trực quan mà người ta phát hiện ra cách thức và tác dụng của hai vật Po Me trong khi “lắp khít” nhau – tức là lúc giao phối. Nguyên lý “lắp khít” nhau ấy được người ta ứng dụng vào thực tiễn sinh hoạt đời sống cộng đồng ở hai lĩnh vực: tâm lý huyết thống và vật lý cơ học. Một về tâm lý huyết thống, đó là mối quan hệ khăng khít của dòng tộc (họ mạc), tiếng Thái gọi là “đẳm” – bên “Po” (cha) là quan hệ “đẳm” “ải noọng” (anh em), còn bên Me (mẹ) quan hệ “đẳm” “lung ta” (dì già) anh chị em bên họ mẹ. Do quan niệm ngang bằng của hai vật Po Me trong việc sinh thành ra tộc người Thái, cho nên trong quan hệ dòng tộc bên Po và bên Me người Thái coi như nhau, họ không phân biệt bên nội, bên ngoại như ở người Kinh. Vật lý: trong ngôi nhà của người Thái xưa, có trên hai mươi gian, sự liên kết các vì kèo và cột và các phụ liệu giữa các gian là dựa trên nguyên lý “lắp khít” nhau của Po Me. Chẳng hạn, chiếc cột trên đầu đẽo nhỏ một đoạn – đoạn ấy gọi là Po, cái dầm, mỗi đầu khoét một lỗ - lỗ ấy gọi là Me. Khi hai vật ấy lắp khít vào nhau thì gọi là Po Me. 2. Vị trí đặt hoa văn của Po Me: Ngôi nhà sàn khi đã làm xong, nhưng nó vẫn lung lay. Do đó, ở những vị trí quan trọng như cột chính và quá giang, cột chính và kèo, người ta gá một tấm gỗ ròn gọi là “khăn hươn” hoặc “tẻm lai hua”, trên tấm gỗ ấy có khắc hình Po Me (hình 1). 3. Mục đích và tác dụng: Hoa văn Po Me là vật “hèm” điểm huyệt vào chỗ Po Me (tiếng Kinh gọi là con tron và lỗ mộng) thì chỗ ấy khó có thể long ra được nữa. Giá trị của hoa văn Po Me ở đây cũng giống như dấu Ấn của vua Xalômông trên nắp lọ, trong truyện “Lão đánh cá và vị hung thần” ở “Nghìn lẻ một đêm”. Song lâu nay người ta cho ho ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Văn hóa Nõ Nường: Cây rau rớn hay hoa văn Po me Văn hóa Nõ Nường: Cây rau rớn hay hoa văn Po me Trích cuốn “Văn hóa Nõ Nường” – Dương Đình Minh Sơn Lâu nay trong nghiên cứu văn hóa dân gian, chúng ta chỉ nói đến yếu tố văn hóa hiện thực, mà từ bỏ, hoặc chỉ lướt qua yếu tố văn hóa tâm linh. Do đó, khi nghiên cứu văn hóa dân gian của người Thái ở Tây Bắc thường gặp những hiện vật biểu tượng văn hóa tâm linh, nhưng do muốn có sự gần với cuộc sống cho nên chúng ta đã coi những cổ vật ấy là loài hiện thực. Chiếc “khau kút” dựng trên hai đầu nóc nhà, một biểu tượng độc đáo của ngôi nhà sàn, chỉ là vật có tác dụng nẹp gianh cho khỏi tốc mái khi bị gió bão, và “kút” là tên của cây guột ngoài rừng – một loại cây có ích trong đời sống con người. Hoặc ở một lĩnh vực khác như nét đặc trưng trong mùa Thái với động tác “nhún gối chân phải, rồi kéo sệt nhẹ bàn chân về đằng sau”. Đó là do người Thái đi trên nhà sàn, mặt sàn giát bằng tấm tre đập đập cho nên có bước đi nhún nhẩy mà thành nét đặc trưng trong động tác múa Thái, hoặc “kút piêu” (chùm hoa văn trang trí ở bốn góc chiếc khăn piêu đội đầu của phụ nữ Thái) cũng là hoa cây rau dớn – loại cây mọc dại ngoài mương, có thể làm rau luộc ăn v.v. Từ quan niệm đó dẫn đến việc gọi tên hoa văn (hình 1) cũng là cây rau dớn v.v… Cách nhận thức và gọi tên những hoa văn theo lối hiện thực này, đến sau 1975 vào nghiên cứu văn hóa dân gian ở vùng Tây Nguyên, người ta cũng gọi một loại hoa văn trên cây kơlao trong lễ hội bỏ mả của người Ba Na là hình cây rau dớn, người địa phương gọi là hoa văn kơ toanh. T.S Nguyễn Duy Thiệu – Viện Đông Nam Á cho tôi xem ảnh hoa văn cây rau dớn trên cây kơlao của vùng Tây Nguyên. Và ông cũng nói là nó không có gì gần gũi với cây rau dớn ngoài rừng cả. Hình 1 Loại cổ vật biểu tượng được gọi là cây rau dớn ấy mà chúng tôi gọi là hoa văn Po Me. Vậy cái hiện thực bên ngoài và ý tứ sâu kín mang yếu tố tâm linh bên trong của cổ vật nằm ở đâu? Đó là điều cần được làm sáng tỏ ở đề mục này. Mặc dù đây là loại hoa văn bình thường, nhưng ý nghĩa tâm linh của nó thì lớn lao vô cùng. Vì thế nếu tìm ra nội dung đích thực của nó, sẽ mở ra một hướng nhìn nhiều chiều hơn về những hoa văn biểu tượng âm dương và tượng nam nữ trên các cổ vật văn hóa tâm linh như trên nắp thạp đồng Đào Thịnh. Thực chất của hoa văn Po Me là thế nào? Để thấy rõ điều này, ta phải đi vào ba yếu tố: xuất xứ của hoa văn, mục đích sử dụng và ý nghĩa của nó. 1. Xuất xứ Trong bài “Po Me là cái Nõ Nường” – Tuần báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh số 131 (3/1994), chúng tôi viết: Trong ý niệm của người Thái ở Tây Bắc: “Po” là con đực có cái “núm” lòi ra; “Me” là con cái có cái “lỗ” lõm vào. Khi hai vật đó “lắp khít” nhau (như đôi cúc bấm) thì gọi là Po Me. Ở đây Po Me như một nguyên hợp Folklor. “Po” về sinh vật là con đực, về tính xã hội loài người là đàn ông, chồng, cha. “Me” về sinh vật là con cái, về tính xã hội loài người là đàn bà, vợ, mẹ. “Po Me” còn là ông bà, tổ tiên, bậc tiền bối và nguồn cội. Một thuật ngữ ra đời dựa trên yếu tố trực quan qua hiện vật (cái lòi ra, chố lõm vào) và hoạt động của hiện vật là lắp khít nhau hẳn loại thuật ngữ đó được ra đời sớm nhất trong ngôn ngữ của họ. Đúng vậy, nhờ trực quan mà người ta phát hiện ra cách thức và tác dụng của hai vật Po Me trong khi “lắp khít” nhau – tức là lúc giao phối. Nguyên lý “lắp khít” nhau ấy được người ta ứng dụng vào thực tiễn sinh hoạt đời sống cộng đồng ở hai lĩnh vực: tâm lý huyết thống và vật lý cơ học. Một về tâm lý huyết thống, đó là mối quan hệ khăng khít của dòng tộc (họ mạc), tiếng Thái gọi là “đẳm” – bên “Po” (cha) là quan hệ “đẳm” “ải noọng” (anh em), còn bên Me (mẹ) quan hệ “đẳm” “lung ta” (dì già) anh chị em bên họ mẹ. Do quan niệm ngang bằng của hai vật Po Me trong việc sinh thành ra tộc người Thái, cho nên trong quan hệ dòng tộc bên Po và bên Me người Thái coi như nhau, họ không phân biệt bên nội, bên ngoại như ở người Kinh. Vật lý: trong ngôi nhà của người Thái xưa, có trên hai mươi gian, sự liên kết các vì kèo và cột và các phụ liệu giữa các gian là dựa trên nguyên lý “lắp khít” nhau của Po Me. Chẳng hạn, chiếc cột trên đầu đẽo nhỏ một đoạn – đoạn ấy gọi là Po, cái dầm, mỗi đầu khoét một lỗ - lỗ ấy gọi là Me. Khi hai vật ấy lắp khít vào nhau thì gọi là Po Me. 2. Vị trí đặt hoa văn của Po Me: Ngôi nhà sàn khi đã làm xong, nhưng nó vẫn lung lay. Do đó, ở những vị trí quan trọng như cột chính và quá giang, cột chính và kèo, người ta gá một tấm gỗ ròn gọi là “khăn hươn” hoặc “tẻm lai hua”, trên tấm gỗ ấy có khắc hình Po Me (hình 1). 3. Mục đích và tác dụng: Hoa văn Po Me là vật “hèm” điểm huyệt vào chỗ Po Me (tiếng Kinh gọi là con tron và lỗ mộng) thì chỗ ấy khó có thể long ra được nữa. Giá trị của hoa văn Po Me ở đây cũng giống như dấu Ấn của vua Xalômông trên nắp lọ, trong truyện “Lão đánh cá và vị hung thần” ở “Nghìn lẻ một đêm”. Song lâu nay người ta cho ho ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Cây rau rớn hay hoa văn Po me lịch sử Việt Nam lễ hội việt nam văn hóa Việt bản sắc việt phong tục tập quánTài liệu liên quan:
-
79 trang 416 2 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 148 0 0 -
69 trang 87 0 0
-
Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động mai táng: Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện
11 trang 61 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 61 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 60 0 0 -
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 59 0 0 -
Văn hoá ẩm thực dân gian Mường
4 trang 54 0 0 -
11 trang 52 0 0
-
Ẩm thực trong văn học dân gian người Việt
11 trang 49 0 0