Vành ngoài, vành trongTrong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du, đoạn thuật cảnh nàng Kiều sa vào lầu xanh, mụ Tú Bà thong dong dặn dò Kiều cách tiếp đãi khách làng chơi, có những câu: Nghề chơi cũng lắm công phu Làng chơi ta phải biết cho đủ điều và: ... ai cũng như ai, Người ta ai mất tiền hoài đến đây? Ở trong còn lắm điều hay, Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung. Này con thuộc lấy nằm lòng, Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề. "Vành ngoài" là bề ngoài,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vành ngoài, vành trong Vành ngoài, vành trongTrong tác phẩm Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đoạn thuật cảnh nàngKiều sa vào lầu xanh, mụ Tú Bà thong dong dặn dò Kiều cách tiếp đãi khách làngchơi, có những câu: Nghề chơi cũng lắm công phu Làng chơi ta phải biết cho đủ điều và: ... ai cũng như ai, Người ta ai mất tiền hoài đến đây? Ở trong còn lắm điều hay, Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung. Này con thuộc lấy nằm lòng, Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề. Vành ngoài là bề ngoài, cách đối đãi bề ngoài với khách. Bảy chữ là bảy việc ghi bằng bảy chữ để dễ nhớ. Bảy việc này là bảy việc làmở ngoài để khách say mê: 1. Khấp là khóc lóc để làm cho khách thương. 2. Tiễn là cắt tóc, thề nguyền để làm cho khách tin. 3. Thích là thích tên khách vào cánh tay mình để khách yêu thương. 4. Thiêu là đốt hương thề nguyền với khách. 5. Giá là hẹn hò với khách. 6. Tẩu là giả rủ khách đi trốn. 7. Tử làm ra bộ liều chết để khách thương yêu, tin cẩn. Tám nghề là tám cách ân ái với khách: 1. Tiếp người bé nhỏ thì dùng cách kích cô thôi hoa. 2. Tiếp người to mập thì dùng cách kim liên song tỏa. 3. Tiếp người nóng tính thì dùng cách đại xiển kỳ cổ. 4. Tiếp người chậm chạp thì dùng cách mạn đả khinh khao. 5. Tiếp người mới vỡ lòng thì dùng cách khẩn thuyên tam trật. 6. Tiếp người thạo đời thì dùng cách tả trì hữu trì. 7. Tiếp người si tình thì dùng cách tỏa tâm truy hồn. 8. Tiếp người lạnh lùng thì dùng cách nhiếp thần nhiệm tỏa. Đây là những bí quyết nhà nghề của những ả lão luyện ở lầu xanh để làm kháchlàng chơi say mê, khó mà cắt nghĩa rõ rệt được.Khúc phượng cầu hoàng Tư Mã Tương Như, tự Tràng Khanh, người ở Thành Đô đời nhà Hán. Người rấtđa tài, văn hay, đàn giỏi. Khi lìa quê lên Tràng An để lập công danh, đến con sông đầu làng, Tương Nhưviết trên cầu một câu: Bất thừa cao xa tứ mã, bất phục quá thử kiều (Không ngồixe cao bốn ngựa, không qua lại cầu này nữa). Nhưng vốn con người phóng lãng hào hoa rất mực nên mua được một chứcquan nhỏ, làm trong ít lâu, chán, cáo bịnh, qua chơi nước Lương, rồi trở về nướcThục. Đến đâu, Tương Như cũng dùng bút mực và cây đàn để giao thiệp bằng hữu. Trong khi đến đất Lâm Cùng, Tương Như vốn sẵn quen với Vương Cát là quanlệnh ở huyện, nên đến chơi. Cát lại mời Tương Như cùng đi dự tiệc ở nhà TrạcVương Tôn, vốn viên ngoại trong huyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nênquan huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu đánh cho một bài. Họ Trác vốn có một người con gái rất đẹp tên Văn Quân, còn nhỏ tuổi mà sớmgóa chồng, lại thích nghe đàn. Tương Như được biết, định ghẹo nàng, nên vừa gảyđàn vừa hát khúc Phượng cầu hoàng (Chim phượng trống tìm chim phượng mái). Chim phượng, chim phượng về cố hương, Ngao du bốn bể tìm chim hoàng Thời chưa gặp chừ, luống lỡ làng. Hôm nay bước đến chốn thênh thang. Có cô gái đẹp ở đài trang, Nhà gần người xa não tâm tràng. Ước gì giao kết đôi uyên ương, Bay liệng cùng nhau thỏa mọi đường. Nguyên văn: Phượng hề, phượng hề quy cố hương, Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng, Thời vị ngộ hề vô sở tương, Hà ngộ kim tịch đăng tư đường. Hữu diệm thục nữ tại khuê phường, Thất nhĩ nhân hà sầu ngã trường. Hà duyên giao cảnh vi uyên ương Tương hiệt cương hề cộng cao tường. Trác Văn Quân nghe được tiếng đàn, lấy làm say mê, đương đêm bỏ nhà đi theochàng. Trác ông tức giận, quyết định từ con. Đôi trai gái đó mở một quán nấu rượu. Vợ chồng cùng cặm cụi làm. Sau Hán Vũ Đế đọc bài Tử hư phú của Tương Như, khen tài mới vời vào triều,ban chức tước. Lại sai chàng cầm cờ tiết, thay nhà vua về Ba Thục chiêu an bọnphụ lão tùng phục nhà Hán. Lần này thỏa chí bình sinh, Tương Như áo gấm vinhquy được người đón rước long trọng. Nhưng làm quan ít lâu, lại chán, cáo bịnh luivề quê. Trong Bích Câu kỳ ngộ có câu: Cầu hoàng tay lựa nên vần, Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào. Và, trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du cũng có câu: Khúc đâu Tư Mã phượng cầu, Nghe ra như oán, như sầu phải chăng! đều do điển tích trên.