1. Về 3-MCPD Mức độ độc hại của các dẫn xuất chloropropanol Những nghiên cứu về độc tính của 3-MCPD thực hiện trên vi sinh vật, chuột bạch và chuột cống cho thấy: Khi tiêm 3-MCPD có nguyên tử đánh dấu 14C trên chuột cống ở liều 100mg/kg thể trọng thấy 30% bài tiết dạng CO2, 8,5% bài tiết nguyên trang qua nước tiểu. Một nghiên cứu khác tương tự, dùng phương pháp đánh dấu 36Cl thì nhận thấy 23% bài tiết qua nước tiểu ở dạng beta-chlorolactate. Chứng tỏ có đào thải. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Về 3-MCPD và công nghệ sản xuất nước tương sạch
|
V ề 3 - MCPD và công ngh ệ sản xuất n ư ớc t ương s ạch
1. Về 3-MCPD
Mức độ độc hại của các dẫn xuất chloropropanol
Những nghiên cứu về độc tính của 3 -MCPD thực hiện trên vi sinh vật, chuột bạch
và chuột cống cho thấy: Khi tiêm 3-MCPD có nguyên tử đánh dấu 14C trên chuột
cống ở liều 100mg/kg thể trọng thấy 30% bài tiết dạng CO2, 8,5% bài tiết nguyên
trang qua nước tiểu. Một nghiên cứu khác tương tự, dùng phương pháp đánh
dấu 36Cl thì nhận thấy 23% bài tiết qua nước tiểu ở dạng beta-chlorolactate. Chứng
tỏ có đào thải.
Theo công bố của WHO FOOD ADDITIVES SERIES 48 dựa trên nhiều kết quả
nghiên cứu thì sự chuyển hóa 3 -MCPD ở động vật có vú chủ yếu là tạo thành
betachlorolactate, và axit oxalic, trong khi chuyển hóa ở vi khuẩn chủ yếu tạo
glycidol là một chất gây đột b iến gen. Beta-chlorolactate có tác dụng kìm hãm một
số enzyme làm giảm hoạt tính của tinh trùng, ảnh hưởng đến tính năng sinh sản của
chuột. Tăng nồng độ ure và creatin trong máu ảnh hưởng đến chức năng thận. Liều
gây chết tỷ lệ 50% (LD 50) của 3-chloro-1,2-propanediol qua đường miệng đối với
chuột cống là 150 mg/kg thể trọng (Ericsson & Baker, 1970).
Đánh giá định lượng 3-MCPD (FDA Mỹ năm 2000) về khả năng gay ung thư ở
chuột đã xác định liều dùng 2,1 jg/kg thể trọng một ngày có xác suất gây ung thư ở
chuột cống là 1/10 6. Cơ quan này không khẳng định được 3-chloro-1,2 -propanediol
có phải là một chất gây ung thư ở người hay không.
Ủy ban khoa học Thực phẩm EU (SCF) Joint WHO/FAO Expert Committee on
Food Additives (JECFA) đ ã khuyến cáo về ngưỡng 3-MCPD tối đa mỗi ngày
(Tolerable Daily Intake) là 2 ìg/kg thể trọng.
Điều kiên hình thành độc tố
Nghiên cứu phản ứng hình thành và phân hủy 3-MCPD (DOLEZAL M. ; CALTA
P. ; VELISEK J 2004) thấy rằng:
Phản ứng này tạo ra các sản phẩm: monochloropropanol, dichloropropanol,
monochloropropanediol, nhưng nhiều nhất là 1,3- dichloro- 2- propanol (1,3 - DCP)
và 3 - monochloropropanol (3- MCPD).
Cường độ phản ứng tạo 3-MCPD phụ thuộc mạnh vào nhiệt độ. Ở điều kiện tối ưu
là 2300C thì lượng 3-MCPD tạo thành là 50 mg/kg glycerol tham gia phản ứng. Ở
1000C hàm lượng 3-MCPD sinh ra chỉ là 0,6mg/kg.
Hằng số tốc độ phản ứng k1 tạo 3-MCPD từ glycerol nhỏ hơn hằng số tốc độ phản
ứng k2 phân hủy 3-MCPD.
2. Thực phẩm nào có chứa 3 MCPD
Kết quả khảo sát 300 mẫu thực phẩm, 90 mẫu nước tương và nhiều phụ liệu thực
phẩm ở châu Âu và Canada thấy rằng 89/300 sản phẩm thực phẩm đ ược khảo sát có
chứa 3-MCPD, gồm các sản phẩm nướng (bánh mì, bánh qui mặn…), sản phẩm
rang (cà phê) hàm lượng trung bình 0,012ppm, các phụ liệu là dextrin vàng sản xuất
bằng phương pháp axit, malt bia cũng có chất này
Trong số các thực phẩm được khảo sát thì nước tương, dầu hào là những sản phẩm
có hàm lượng 3 -MCPD cao nhất mà nguyên nhân là phương pháp sản xuất. 22% số
mẫu tương EU phân tích có độc tố chloropropanol, hàm lượng cao nhất tìm thấy là
93ppm.
Hàm lượng trung bình của 90 mẫu nước tương xét nghiệm ở Canada là 18ppm,
trong đó mẫu có hàm lượng cao nhất là 330ppm.
Nước tương do làm gia vị, được dùng trong bữa ăn hoặc dùng trong chế biến, nên
lượng sử dụng nhỏ, chiếm khoảng từ 0,1 đến 1% hàm lượng thức ăn.
3. Làm thế nào để sản xuất nước tương không có chloropropanol
Nước tương, xì dầu, tàu vị yểu… là các sản phẩm thủy phân từ protein thực vật còn
gọi chung là HVP (hydrolyzed vegetable protein).
Ở V iệt Nam, nước tương là sản phẩm thực phẩm truyền thống được sử dụng phổ
biến khắp 3 miền Bắc, Trung, Nam.
Nguyên liệu:
Nguyên liệu sản xuất tương là các nguồn protein thực vật, có thể từ hạt:
- Lúa mì,
- Ngô hạt (bắp)
- Đậu nành
Hay từ bánh khô dầu đ ậu nành, đậu phụng hoặc gluten bột mì, gluten bắp
Hiện tại ở Việt Nam có các nguồn nguyên liệu như sau đang được sử dụng:
Bã khô đậu nành trích ly của Argentina
Bã khô đậu phộng trích ly của Ấn độ
Bã khô đậu nành trích ly của Mỹ
(Đ ậu nành từ Mỹ và Argentina là GMO)
Bánh khô dầu đậu phộng ép thủ công còn 5-8% chất béo
Bánh khô dầu đậu phộng ép công nghiệp còn 3-5% chất béo
Hàm lượng protein tổng trong các nguyên liệu này 42-50%. Hàm lượng chất béo từ
0,1 đến 8%
Công nghệ:
Sự thủy phân protein là cơ sở của các phương pháp công nghệ chế biến nước tương
Bản chất của sự thủy phân protein là sự thủy phân liên kết peptide.
Do liên kết peptide là một liên kết mạnh, sự thủy phân xảy ra trong điều kiện có xúc
tác.
Tác nhân xúc tác hóa học là axit hoặc kiềm và tác nhân xúc tác hoá sinh học là
nhóm enzym thủy phân protein có tên chung là protease.
Trong chế biến, sự thủy phân protein được ứng dụng để thu nhận các sản phẩm thủy
phân hoàn toàn hoặc thu nhận các sản phẩm thủy phân chưa hoàn toàn.
Các sản phẩm thủy phân chưa hoàn toàn (Protein hydrolysates) hay bị đắng,
Nhất là khi nó được thủy phân bởi các protease của vi khuẩn. Vị đ ắng liên quan tới
các peptide chứa các axit amin k ...