Vì sao phải phân loại các nhóm thuốc?
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 99.98 KB
Lượt xem: 5
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đối với thuốc nói chung, để dễ dàng tham khảo, nghiên cứu và nhất là ứng dụng trong điều trị, người ta phân thành các nhóm thuốc. Lấy ví dụ thuốc kháng sinh, hiện nay có rất nhiều kháng sinh được dùng trong điều trị. Dựa vào cấu trúc hóa học có phần giống nhau hoặc dựa vào cùng một cơ chế tác động (tức tiêu diệt hoặc ức chế sự phát triển vi khuẩn theo cách nào đó), người ta phân thành các nhóm kháng sinh. Các nhóm này có tên chung, thí dụ nhóm penicillin, nhóm cephalosporin,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vì sao phải phân loại các nhóm thuốc? Vì sao phải phân loại các nhóm thuốc? Đối với thuốc nói chung, để dễ dàng tham khảo, nghiên cứu vànhất là ứng dụng trong điều trị, người ta phân thành các nhóm thuốc.Lấy ví dụ thuốc kháng sinh, hiện nay có rất nhiều kháng sinh đượcdùng trong điều trị. Dựa vào cấu trúc hóa học có phần giống nhau hoặcdựa vào cùng một cơ chế tác động (tức tiêu diệt hoặc ức chế sự pháttriển vi khuẩn theo cách nào đó), người ta phân thành các nhóm khángsinh. Các nhóm này có tên chung, thí dụ nhóm penicillin, nhómcephalosporin, nhóm tetracyclin, nhóm macrolid (có thuốc erythromycin,clarithromycin)... Nhóm có tên penicillin vì kháng sinh đầu tiên của nhómđược ly trích từ một loại vi nấm có tên là penicillium notatum. Nhómcephalosporin cũng thế, kháng sinh đầu tiên được ly trích từ cephalosporumacremonium. Đa số thuốc là hóa dược tổng hợp và thường được dựa vào cấu trúchóa học tương tự để phân nhóm. Thí dụ, thuốc kháng histamin ở thụ thể H1dùng trị dị ứng được phân thành các nhóm như: nhóm dẫn chất phenothiazin(bao gồm các thuốc có nhân hóa học chung là phenothiazin chỉ khác chút ítnhóm thế gắn vào nhân, đó là promethazin tức phénergan, alimemazin tứcthéralène), nhóm dẫn chất ethanolamin (bao gồm diphenhydramin,dimenhydrinat, clemastin...)... Một cách phân loại cũng thường được dùng là chia các thuốc thànhcác nhóm theo thế hệ. Như các kháng sinh nhóm cephalosporin lại đượcphân thành nhóm nhỏ hơn là các cephalosporin thế hệ thứ 1, thứ 2, thứ 3(nay đã có thế hệ thứ 4). Việc phân loại thuốc theo thế hệ dựa vào thời gianthuốc ra đời và các lợi điểm. Thuốc thuộc thế hệ sau ra đời sau nên có nhiềuưu điểm so với thế hệ trước. Thí dụ, thuốc kháng histamin ở thụ thể H1 đượcchia theo thế hệ như sau: Thế hệ 1: Còn gọi các thuốc kháng histamin cổ điển, bao gồm thuốcra đời đầu tiên từ năm 1939 đến thuốc của những năm 1970, nhưpromethazin, alimemazin, clorpheniramin... Thuốc cổ điển có 2 bất lợi: gâybuồn ngủ và thời gian tác dụng ngắn phải dùng nhiều lần trong ngày. Thế hệ 2: Gồm những thuốc xuất hiện từ năm 1980 như: ceterizin,astemizol, terfenadin, loratidin... Thuốc thế hệ mới khắc phục hai bất lợi củathế hệ 1: thuốc không xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương nên không gâybuồn ngủ, thuốc có thời gian bán thải dài nên chỉ cần uống 1-2 lần trongngày. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, có hai thuốc thuộc thế hệ 2 làterfenadin (seldane) và astemizol (hismanal) đã bị cấm lưu hành ở nhiềunước (ở ta mới đây đã cấm lưu hành astemizol). Lý do hai thuốc vừa kể cóthể gây rối loạn nhịp tim, đặc biệt khi phối hợp với thuốc kháng sinh (nhómmacrolid) và kháng nấm (ketoconazol). Vì vậy, hiện nay có những thuốckháng histamin mới được một số tác giả cho là thuộc thế hệ thứ 3. Đó lànhững thuốc gọi là đồng dạng (isomer) hoặc chất chuyển hóa (metabolite,tức sản phẩm chuyển hóa trong cơ thể ta) của một số thuốc thuộc thế hệ 2.Như fexofenadin là chất chuyển hóa của terfenadin, tecasmizol là chấtchuyển hóa của astemizol. Do là chất chuyển hóa nên thuốc thuộc thế hệ 3được cho là không gây buồn ngủ như thuốc thế hệ 2 và đặc biệt không gâybiến cố tim mạch như thuốc cha mẹ thuộc thế hệ trước nó. Việc phân loại nhóm thuốc có mấy điều lợi như sau: Do thị trườngdược phẩm hiện nay quá rộng lớn (có thể xem như rừng thuốc) ta không thểnào nhớ hết từng món thuốc. Tuy nhiên, nếu biết được một thuốc nằm trongnhóm thuốc nào, biết tính chất chung của nhóm thuốc đó, ta có thể suy ratính chất của một thuốc cụ thể để lựa chọn trong sử dụng. Thí dụ, ta biếtofloxacin nằm trong nhóm kháng sinh fluoroquinolon và fluoroquinolon cótác dụng chung là làm mòn sụn khớp ở súc vật còn non thí nghiệm nên cóchống chỉ định đối với trẻ em. V ì vậy, ta biết được không chỉ ofloxacin màcác kháng sinh khác trong nhóm fluoroquinolon sẽ cùng tuân thủ chống chỉđịnh đó. Các nhà điều trị, dựa vào kiến thức chuyên môn và kinh nghiệmchữa bệnh, thường có sẵn một số thuốc đầu tay (lựa chọn đầu tiên) trongchọn sử dụng. Sau khi khám, chẩn đoán bệnh, bác sĩ sẽ chọn một thuốc đầutay trong một nhóm thuốc cụ thể để chỉ định dùng cho người bệnh trongmột thời gian nào đó và hẹn ngày tái khám (thí dụ cho dùng thuốc 3-5 ngàyvà hẹn người bệnh trở lại tái khám, rõ ràng việc tái khám này rất cần thiết).Khi tái khám, bác sĩ sẽ xem tiến triển bệnh như thế nào. Nếu bệnh cải thiện,người bệnh không bị tác dụng phụ nghiêm trọng, bác sĩ có thể cho tiếp tụcdùng thuốc đã chọn. Nhưng nếu bệnh không cải thiện hoặc người bệnh bị tácdụng phụ đến độ không tiếp tục d ùng được thuốc, bác sĩ sẽ chỉ định mộtthuốc thuộc nhóm thuốc khác hoặc thế hệ mới hơn để thay thế thuốc cũ chongười bệnh. Do thuộc nhóm có cấu trúc hóa học khác hoặc thuộc thế hệ mớicó ưu điểm hơn, thuốc mới được chọn sẽ cho tác dụng điều trị tốt hơn hoặckhông gây tác dụng phụ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vì sao phải phân loại các nhóm thuốc? Vì sao phải phân loại các nhóm thuốc? Đối với thuốc nói chung, để dễ dàng tham khảo, nghiên cứu vànhất là ứng dụng trong điều trị, người ta phân thành các nhóm thuốc.Lấy ví dụ thuốc kháng sinh, hiện nay có rất nhiều kháng sinh đượcdùng trong điều trị. Dựa vào cấu trúc hóa học có phần giống nhau hoặcdựa vào cùng một cơ chế tác động (tức tiêu diệt hoặc ức chế sự pháttriển vi khuẩn theo cách nào đó), người ta phân thành các nhóm khángsinh. Các nhóm này có tên chung, thí dụ nhóm penicillin, nhómcephalosporin, nhóm tetracyclin, nhóm macrolid (có thuốc erythromycin,clarithromycin)... Nhóm có tên penicillin vì kháng sinh đầu tiên của nhómđược ly trích từ một loại vi nấm có tên là penicillium notatum. Nhómcephalosporin cũng thế, kháng sinh đầu tiên được ly trích từ cephalosporumacremonium. Đa số thuốc là hóa dược tổng hợp và thường được dựa vào cấu trúchóa học tương tự để phân nhóm. Thí dụ, thuốc kháng histamin ở thụ thể H1dùng trị dị ứng được phân thành các nhóm như: nhóm dẫn chất phenothiazin(bao gồm các thuốc có nhân hóa học chung là phenothiazin chỉ khác chút ítnhóm thế gắn vào nhân, đó là promethazin tức phénergan, alimemazin tứcthéralène), nhóm dẫn chất ethanolamin (bao gồm diphenhydramin,dimenhydrinat, clemastin...)... Một cách phân loại cũng thường được dùng là chia các thuốc thànhcác nhóm theo thế hệ. Như các kháng sinh nhóm cephalosporin lại đượcphân thành nhóm nhỏ hơn là các cephalosporin thế hệ thứ 1, thứ 2, thứ 3(nay đã có thế hệ thứ 4). Việc phân loại thuốc theo thế hệ dựa vào thời gianthuốc ra đời và các lợi điểm. Thuốc thuộc thế hệ sau ra đời sau nên có nhiềuưu điểm so với thế hệ trước. Thí dụ, thuốc kháng histamin ở thụ thể H1 đượcchia theo thế hệ như sau: Thế hệ 1: Còn gọi các thuốc kháng histamin cổ điển, bao gồm thuốcra đời đầu tiên từ năm 1939 đến thuốc của những năm 1970, nhưpromethazin, alimemazin, clorpheniramin... Thuốc cổ điển có 2 bất lợi: gâybuồn ngủ và thời gian tác dụng ngắn phải dùng nhiều lần trong ngày. Thế hệ 2: Gồm những thuốc xuất hiện từ năm 1980 như: ceterizin,astemizol, terfenadin, loratidin... Thuốc thế hệ mới khắc phục hai bất lợi củathế hệ 1: thuốc không xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương nên không gâybuồn ngủ, thuốc có thời gian bán thải dài nên chỉ cần uống 1-2 lần trongngày. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, có hai thuốc thuộc thế hệ 2 làterfenadin (seldane) và astemizol (hismanal) đã bị cấm lưu hành ở nhiềunước (ở ta mới đây đã cấm lưu hành astemizol). Lý do hai thuốc vừa kể cóthể gây rối loạn nhịp tim, đặc biệt khi phối hợp với thuốc kháng sinh (nhómmacrolid) và kháng nấm (ketoconazol). Vì vậy, hiện nay có những thuốckháng histamin mới được một số tác giả cho là thuộc thế hệ thứ 3. Đó lànhững thuốc gọi là đồng dạng (isomer) hoặc chất chuyển hóa (metabolite,tức sản phẩm chuyển hóa trong cơ thể ta) của một số thuốc thuộc thế hệ 2.Như fexofenadin là chất chuyển hóa của terfenadin, tecasmizol là chấtchuyển hóa của astemizol. Do là chất chuyển hóa nên thuốc thuộc thế hệ 3được cho là không gây buồn ngủ như thuốc thế hệ 2 và đặc biệt không gâybiến cố tim mạch như thuốc cha mẹ thuộc thế hệ trước nó. Việc phân loại nhóm thuốc có mấy điều lợi như sau: Do thị trườngdược phẩm hiện nay quá rộng lớn (có thể xem như rừng thuốc) ta không thểnào nhớ hết từng món thuốc. Tuy nhiên, nếu biết được một thuốc nằm trongnhóm thuốc nào, biết tính chất chung của nhóm thuốc đó, ta có thể suy ratính chất của một thuốc cụ thể để lựa chọn trong sử dụng. Thí dụ, ta biếtofloxacin nằm trong nhóm kháng sinh fluoroquinolon và fluoroquinolon cótác dụng chung là làm mòn sụn khớp ở súc vật còn non thí nghiệm nên cóchống chỉ định đối với trẻ em. V ì vậy, ta biết được không chỉ ofloxacin màcác kháng sinh khác trong nhóm fluoroquinolon sẽ cùng tuân thủ chống chỉđịnh đó. Các nhà điều trị, dựa vào kiến thức chuyên môn và kinh nghiệmchữa bệnh, thường có sẵn một số thuốc đầu tay (lựa chọn đầu tiên) trongchọn sử dụng. Sau khi khám, chẩn đoán bệnh, bác sĩ sẽ chọn một thuốc đầutay trong một nhóm thuốc cụ thể để chỉ định dùng cho người bệnh trongmột thời gian nào đó và hẹn ngày tái khám (thí dụ cho dùng thuốc 3-5 ngàyvà hẹn người bệnh trở lại tái khám, rõ ràng việc tái khám này rất cần thiết).Khi tái khám, bác sĩ sẽ xem tiến triển bệnh như thế nào. Nếu bệnh cải thiện,người bệnh không bị tác dụng phụ nghiêm trọng, bác sĩ có thể cho tiếp tụcdùng thuốc đã chọn. Nhưng nếu bệnh không cải thiện hoặc người bệnh bị tácdụng phụ đến độ không tiếp tục d ùng được thuốc, bác sĩ sẽ chỉ định mộtthuốc thuộc nhóm thuốc khác hoặc thế hệ mới hơn để thay thế thuốc cũ chongười bệnh. Do thuộc nhóm có cấu trúc hóa học khác hoặc thuộc thế hệ mớicó ưu điểm hơn, thuốc mới được chọn sẽ cho tác dụng điều trị tốt hơn hoặckhông gây tác dụng phụ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kiến thức y học sử dụng thuốc tài liệu về thuốc dược học tài liệu dượcTài liệu liên quan:
-
Một số dấu hiệu bất thường khi dùng thuốc
5 trang 186 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 169 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 125 0 0 -
4 trang 112 0 0
-
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 110 0 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 77 0 0 -
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 54 0 0 -
Kiến thức y học - Sức khỏe quý hơn vàng: Phần 1
177 trang 49 0 0 -
Những bí quyết chữa bệnh từ đậu phụ
5 trang 48 0 0 -
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, KỸ NĂNG SỬ DỤNG ORESOL
22 trang 46 0 0