Thông tin tài liệu:
Phần 2 Tài liệu trình bày nội dung chương III - Môi trường và phát triển bền vững vùng biển đảo Bạch Long Vĩ. Nội dung phần này trình bày những nét cơ bản về hoàn cảnh kinh tế - xã hội, thực trạng môi trường và định hướng phát triển bền vững tài nguyên và môi trường.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vùng biển đảo Bạch Long Vĩ - Thiên nhiên và môi trường: Phần 2 153 Phần III MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG BIỂN ĐẢO BẠCH LONG VĨ Chương 8 HOÀN CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂNI. HOÀN CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI1. BLV trước khi thành lập huyện đảo Cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trên đảo BLV không có dân cư sinh sống, đảochỉ là nơi tránh gió của ngư dân trên biển. Năm 1887, sau khi thực dân Pháp thôn tính xong BắcKỳ, chính quyền Pháp và nhà Thanh đã thoả thuận: Những hòn đảo nằm kề phía Đông của kinhtuyến Paris (105043 Đông), nghĩa là đường thẳng Bắc- Nam đi qua mũi phía Đông đảo Trà Cổ(còn gọi là Vạn Chú) và tạo thành biên giới trên biển thuộc về Trung Quốc. Các đảo Cô Tô vànhững đảo khác ở phía Tây kinh tuyến này trong đó có đảo BLV thuộc về An Nam. Theo tư liệu cuốn “Tỉnh thành xưa ở Việt Nam”, trang 36-42, của nhà xuất bản Hải Phòngnăm 2003 và theo tác giả Ngọc Nhàn (Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I) giới thiệu bài viết nghiêncứu thám sát của Hội Lapicque và Công ty về đảo BLV đăng trên Tuần báo Đông Dương số 200ra ngày 29/06/1944 [48]. Từ tài liệu quý này hiện đang được lưu trữ tại Cục Văn thư lưu trữ Nhànước, có thể phác thảo một số nét cơ bản về hoàn cảnh KT-XH đảo BLV vào đầu thế kỷ XX chođến năm 1944 như sau: Khoảng năm 1920, người ta phát hiện ra một điểm nước ngọt giếng đào ở phía Nam đảo.Vào tháng 08/1921, có một người dân làng Giáp Nam, hạt Cô Tô, tỉnh Quảng Yên làm đơn gửilên chính quyền cấp trên qua viên trưởng đồn quần đảo Cô Tô đề nghị được phép canh tác trênkhu đất thấp của đảo BLV. Kể từ đó, chính quyền Pháp gia tăng giám sát BLV nằm trong quyềnbảo hộ của họ. Chính quyền trung ương đã ra chỉ thị yêu cầu tàu tuần tra của Sở Thuế đoan vàcác thuyền gắn động cơ của quần đảo Cô Tô thuộc các đơn vị trong hạm đội phải ghé thăm BLVít nhất một lần trong năm. Chính quyền Pháp ở Đông Dương rất quan tâm về mặt chính trị cũng như hành chính đảoBLV, dù đảo này có diện tích nhỏ và nghèo. Năm 1937, Chính phủ Bảo Đại phái một tiểu độigồm 12 người dựng đồn, lập chế độ lý trưởng ở đảo, đổi tên đảo chính thức thành BLV. Về mặthành chính, đảo trực thuộc quyền quản lý của trưởng hạt Cô Tô. Các nhà chức trách trên đảođược giao nhiệm vụ vẫy cờ hiệu hướng dẫn khi có tàu đến neo đậu tại đây và được cấp con dấuriêng theo quyền hạn. Trong các chuyến kinh lý, thẻ thuế thân được chính quyền bảo hộ cấp chocư dân trên đảo nhằm giúp mục đích thống kê và giám sát dân cư.154 Trần Đức Thạnh (Chủ biên) BLV cũng là điểm phải đến trong lộ trình kinh lý mà chính quyền bảo hộ Pháp yêu cầucấp dưới khi tiến hành tuần tra giám sát định kỳ: bắt đầu từ vịnh Hạ Long, đến Cô Tô, BLV,vòng quanh quần đảo Hoàng Sa, rồi quay trở lại các đảo dọc bờ biển Trung Kỳ và kết thúc tạitrạm Thuế đoan Cát Bà. Trên đảo, có ba cụm dân cư được quy hoạch thành một làng, nằm ở phần phía Nam đảo,với khoảng 75-80 nóc nhà tranh vách đất và số dân khá ổn định. Dân cư trên đảo chừng 200người, trong đó có khoảng 30 phụ nữ và 60 trẻ em. Trên sườn phía Tây đảo cũng có một số nócnhà và một miếu nhỏ. Các khu vực có dân sinh sống được cung cấp nước ngọt đầy đủ nhờ bagiếng nước đào. Cách làng 500m và sát bờ biển là một miếu nhỏ thờ Thần Giếng. Trong miếucó một tấm bia khắc chữ: “Thủy Thang Phúc Thần Vị”. Mặt tiền của miếu trông ra biển và đượcche chắn, bảo vệ bằng một bức tường xây bằng đá. Phía trong bức tường mặt tiền của miếu cóđặt ban thờ Thần Núi, với cờ bằng nhiễu đỏ thêu chữ: “Sơn Đầu Đại Vương”. Dân cư trên đảo sinh sống và lập nghiệp bằng nghề chăn nuôi, trồng trọt trên đảo và khaithác hải sản ven đảo. Đất canh tác nằm trải dài từ đụn cát chân đồi, các thềm đất trên sườn đồiphía Đông và lên tới đỉnh đồi. Loại cây trồng chính là khoai lang do có đất cát pha giàu mùnhữu cơ, rải rác có các ruộng lúa, các khu đất trồng lạc, cao lương và rau. Diện tích đất canh tácước khoảng 20 héc-ta. Gia súc chủ yếu là bò với số lượng không nhiều, lợn và nhiều gia cầm. Có khoảng 25-50 thuyền đăng ký đánh bắt ở Cát Bà, tháng 9 hàng năm ra khơi đánh cá ởvùng nước phía Nam BLV, được phép neo đậu ở đảo tránh các đợt gió mùa. Cũng có một số tàuđánh cá từ Hải Nam tới thông thương. Buôn bán chủ yếu tại chỗ, cá đánh bắt về được tiêu thụngay trên bãi biển hoặc được dự trữ để phần lớn chở tới đảo Cát Bà và một phần nhỏ bán sangđảo Hải Nam (Trung Quốc). Bào ngư là sản vật được các thương thuyền người Hoa cập đảomua gom và bán sang Quảng Đông (Trung Quốc). Tuy nhiên, sau này đã có lệnh bào ngư khaithác không được đưa bán sang Trung Quốc, mà chỉ được bán tại Việt Nam. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Nhậthất cẳ ...