Danh mục

Xác định độ tiêu hóa biểu kiến của một số nguyên liệu làm thức ăn cho cá giò (Rachycentron canadum) giống

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 320.77 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (9 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết này là một phần nghiên cứu sản xuất thức ăn cho cá giò thuộc đề tài mã số KC.06.15/06- 10. Một thí nghiệm đã được tiến hành để xác định độ tiêu hóa biểu kiến về chất khô (DM), đạm thô (CP), chất béo thô (CF), tro, can xi, và phốt pho tổng số của các nguyên liệu làm thức ăn ở cá giò giống có trọng lượng trung bình 102,33 ± 3,14 g.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xác định độ tiêu hóa biểu kiến của một số nguyên liệu làm thức ăn cho cá giò (Rachycentron canadum) giống VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 XÁC ĐỊNH ĐỘ TIÊU HÓA BIỂU KIẾN CỦA MỘT SỐ NGUYÊN LIỆU LÀM THỨC ĂN CHO CÁ GIÒ (Rachycentron canadum) GIỐNG Trần Quốc Bình1*, Vũ Anh Tuấn1, Lê Hữu Hiệp1, Nguyễn Thuý An1 TÓM TẮT Bài báo này là một phần nghiên cứu sản xuất thức ăn cho cá giò thuộc đề tài mã số KC.06.15/06- 10. Một thí nghiệm đã được tiến hành để xác định độ tiêu hóa biểu kiến về chất khô (DM), đạm thô (CP), chất béo thô (CF), tro, can xi, và phốt pho tổng số của các nguyên liệu làm thức ăn ở cá giò giống có trọng lượng trung bình 102,33 ± 3,14 g. Thí nghiệm được thực hiện từ ngày 23/11/2008 đến 01/01/2009 gồm 13 công thức trong đó gồm một công thức đối chứng (GG1) và 12 công thức kiểm tra (GG2-GG13). Mười công thức kiểm tra (GG2-GG11) chứa 70 % nguyên liệu đối chứng và 30 % nguyên liệu kiểm tra (bột cá Chilê, bột cá Cà Mau, bột lông vũ, bột gia cầm, bột xương thịt heo, bột đậu nành nguyên hạt rang xay, bột mực, bột sò, bột tôm, bột mì). Hai công thức còn lại (GG12 và GG13) chứa 85 % nguyên liệu đối chứng và 15 % nguyên liệu kiểm tra (dầu cá, dầu mực). Crôm ôxit được thêm vào để làm chất đánh dấu với lượng 10 g/kg thức ăn ở cả công thức đối chứng và kiểm tra. Thí nghiệm có 3 lần lặp lại, mỗi lần lặp có 15 con cá/bể. Cá được cho ăn 2 lần/ngày với mức tối đa trong khoảng 30 phút. Phân cá được thu bằng phương pháp vuốt phân. Trong suốt thời gian thí nghiệm các yếu tố nhiệt độ nước, pH, ôxy hoà tan và độ mặn lần lượt là 26,52 ± 0,23 (oC); 7,59 ± 0,08; 5,82 ± 0,09 (mg.l-1) và 15 ± 0,00 (‰). Đối với phần lớn nguyên liệu địa phương độ tiêu hoá chất khô là trên 70 %, đáng chú ý là bột mì, bột đậu nành nguyên hạt, bột cá Cà Mau, bột tôm. Đối với protein thô, khả năng tiêu hoá biểu kiến đạt giá trị cao nhất ở các nguyên liệu bột sò (96,9 %), bột mì (96,2 %), bột cá Chilê (95,8 %) và bột tôm (95,2 %). Cá giò sử dụng tốt chất béo thô từ bột đậu nành (98,5 %) và bột sò (97,4 %). Độ tiêu hóa tro đạt cao nhất tìm thấy ở bột sò (95,5 %) và bột tôm (89,6 %). Độ tiêu hoá của cá với can xi và phốt pho dao động từ 28,9 – 93,50 %. Kết quả nghiên cứu này có thể ứng dụng trong việc lựa chọn nguyên liệu để sản xuất thức ăn cho cá giò giống. Từ khóa: Cá giò, Rachycentron canadum, crôm ôxit, độ tiêu hóa biểu kiến. 1 Phân Viện Nghiên cứu Thủy sản Minh Hải, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2. * Email: tranquocbinhaquaculture@yahoo.com.vn TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 97 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 I. GIỚI THIỆU II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP Việt Nam có đường bờ biển 3.260 km trải Thí nghiệm đã được tiến hành tại Trại Thực dài từ địa đầu Móng Cái đến Hà Tiên và có tiềm Nghiệm Thuỷ sản Bạc Liêu từ 23/11/2008 đến năng rất lớn để phát triển các đối tượng nuôi 01/01/2009. biển, trong đó có cá giò (còn gọi là cá bớp). Chuẩn bị cá giò thí nghiệm Ở Việt Nam, cá giò được nuôi khá phổ biến 585 cá giò giống có trọng lượng 102,33 ở các tỉnh ven biển từ Bắc tới Nam như Hải ± 3,14 g được sử dụng. Trước khi thí nghiệm, Phòng, Quảng Ninh, Huế, Phú Yên, Vũng Tàu, 1.200 cá giò giống được nuôi trong giai đặt Kiên Giang (Nguyễn Quang Huy, 2002). Bên trong ao trước 50 ngày để chuẩn bị cho thí cạnh đó, nhiều nguồn nguyên liệu địa phương nghiệm. Cá được bắt cho vào bể xi măng và tắm ở nước ta cũng cho thấy tiềm năng rất lớn trong với formaline 100 ppm trong 30 phút. Chỉ có việc sử dụng làm thức ăn cho đối tượng nuôi những cá có kích cỡ đồng đều và khoẻ mạnh thủy sản. Tuy nhiên, hiện nay còn rất ít nghiên (không bị dị tật, không xây xát) mới được sử cứu thực hiện về đánh giá khả năng tiêu hóa dụng. Mỗi bể được bố trí 15 con cá giò. biểu kiến của các nguyên liệu sử dụng làm thức ăn cho cá giò (Rachycentron canadum). Hệ thống nuôi, nguồn nước và kiểm tra Các nghiên cứu này thật sự quan trọng vì đây chất lượng nước là bước đầu tiên trong tiến trình sản xuất thức 39 bể composite 500 L được chia thành ba ăn (De Silva và Anderson, 1995). Độ tiêu khối tương ứng với ba lần lặp lại cho 12 công hóa biểu kiến sẽ giúp ích trong việc chọn lựa thức thí nghiệm với hệ thống nước bán tuần những nguyên liệu có tính khả dụng cao cùng hoàn. Nước được lưu thông với tốc độ 40 L.h-1 với chi phí thấp và giảm được lượng chất thải và mực nước được giữ ở mức 300 L ở mỗi bể. vào mội trường nước (Cho và Bureau, 2001). Trong suốt thời gian thí nghiệm, nhiệt độ, độ Do đó, nghiên cứu xác định khả năng tiêu hóa mặn, pH và ôxy hoà tan được theo dõi và có giá biểu kiến của cá giò đối với một số nguyên liệu trị lần lượt là 26,52 ± 0,23 (oC); 7,59 ± 0,08; thường sử dụng làm thức ăn là việc làm cần 5,82 ± 0,09 (mg.L-1) và 15 ± 0,00 (‰). thiết, đóng vai trò cơ sở cho việc cung cấp thức Công thức thức ăn thí nghiệm ăn hiệu quả, tiết kiệm chi phí cho nghề nuôi cá Mười ba công thức thức ăn được chuẩn bị giò ở nước ta. bao gồm 1 công thức đối chứng (GG1) và 12 ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: