Danh mục

Xác định một số nấm gây bệnh trên trứng cá bá chủ (Pterapogon kauderni) trong quá trình ấp bằng phương pháp PCR và SEM

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 545.28 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (9 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghiên cứu này tập trung phân lập và định danh chủng nấm từ mẫu bệnh phẩm thu nhận từ 4 mẫu trứng cá Bá Chủ (Pterapogon kauderni) bị hỏng trong quá trình ấp trứng và xác định sự tái nhiễm lại nấm với mẫu trứng cá thông qua kĩ thuật SEM (Scanning Electron Microscope). Kết quả hình thái học của khuẩn lạc, khuẩn ty và bào tử cho thấy có 3 chủng nấm sợi (M1, M1.1 và M4.1).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xác định một số nấm gây bệnh trên trứng cá bá chủ (Pterapogon kauderni) trong quá trình ấp bằng phương pháp PCR và SEM VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II XÁC ĐỊNH MỘT SỐ NẤM GÂY BỆNH TRÊN TRỨNG CÁ BÁ CHỦ (Pterapogon kauderni) TRONG QUÁ TRÌNH ẤP BẰNG PHƯƠNG PHÁP PCR VÀ SEM Nguyễn Thị Thủy Tiên1, Võ Minh Sơn2, Lê Quỳnh Loan3, Nguyễn Hoàng Dũng3, Hoàng Quốc Khánh3, Ngô Đức Duy3* TÓM TẮT Nghiên cứu này tập trung phân lập và định danh chủng nấm từ mẫu bệnh phẩm thu nhận từ 4 mẫu trứng cá Bá Chủ (Pterapogon kauderni) bị hỏng trong quá trình ấp trứng và xác định sự tái nhiễm lại nấm với mẫu trứng cá thông qua kĩ thuật SEM (Scanning Electron Microscope). Kết quả hình thái học của khuẩn lạc, khuẩn ty và bào tử cho thấy có 3 chủng nấm sợi (M1, M1.1 và M4.1). Chủng M1.1 có khả năng thuộc chi Fusarium, chủng M1 thuộc chi Lecanicillium và chủng M4.1 thuộc chi Neurospora. Kết quả thu nhận bộ gene DNA và nhân bản vùng bảo tồn ITS của 3 chủng M1.1, M1 và M4.1 cùng với so sánh các dữ liệu gene của các chủng trên ngân hàng gene NCBI cho thấy chủng M1.1 có mức độ tương đồng với loài Fusarium incarnatum là 100%, chủng M1 có mức độ tương đồng với loài Lecanicillium tenuipes là 100% và tương tự chủng M4.1 với loài Neurospora crassa là 99%. Cảm nhiễm của 3 chủng nấm trên với trứng cá Bá Chủ thông qua kỹ thuật hình ảnh SEM ghi nhận chỉ có chủng Neurospora crassa có khả năng xâm nhiễm vào trứng cá Bá Chủ gây hỏng trứng trong quá trình ấp. Từ các kết quả nghiên cứu cho thấy nấm Neurospora crassa có khả năng gây bệnh và làm hỏng trứng cá Bá Chủ. Từ khóa: cá Bá Chủ, trứng cá, gene ITS, nấm, SEM. I. MỞ ĐẦU Chủ hiện đang được người chơi cá cảnh trên thế giới ưa chuộng. Cá Bá chủ hiện đang khai Việt Nam có tiềm năng lớn cho phát triển thác quá mức ngoài tự nhiên và được liệt vào cá cảnh do thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, nguồn danh sách đỏ của tổ chức IUCN (International lợi thủy sinh tự nhiên phong phú và đa dạng, Union for Conservation of Nature and Natural đặc biệt phù hợp cho sự sinh sản và phát triển Resources). Ngoài ra, trong quá trình xây dựng các loài cá cảnh. Tuy nhiên, hầu hết các loài quy trình sinh sản trong bể, nấm bệnh là một cá biển được đánh bắt ngoài tự nhiên bằng trong những tác nhân gây hư hỏng trứng cá làm hóa chất đã dẫn đến nhiều loài cá có nguy tỉ lệ trứng nở giảm mạnh, ảnh hưởng nghiêm cơ tuyệt chủng nằm trong sách đỏ. Cá Bá trọng đến quy trình sản xuất. Do vậy, việc xác chủ (Pterapogon kauderni) thuộc họ cá Sơn định chủng nấm gây bệnh trên trứng cá Bá Chủ Apogonidae, tuy nhiên về di truyền loài cá nhằm tìm ra biện pháp khắc phục mang tính này tiến hoá một nhánh khác và có tên khoa cấp thiết. học riêng biệt (Cites, 2007) và là loài cá này Hiện nay, cá Bá Chủ được ưa chuộng và phân bố ở đảo Banggai, Indonesia (Vagelli, đã xuất đi nhiều nước thuộc Châu Âu, Mỹ và 2007). Với màu sắc đẹp và dễ nuôi nên cá Bá 1 Viện Sinh học Nhiệt đới, Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2 Phòng Sinh học Thực nghiệm, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II 3 Trung tâm Công nghệ Sinh học Tp. Hồ Chí Minh *Email: ngoduy007itb@gmail.com 58 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 10 - THÁNG 12/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Châu Á với mục đích phục vụ cho người chơi được phát hiện là nguyên nhân gây bệnh cho cá cảnh. Do nhu cầu tiêu thụ loài cá này càng P. kauderni (Weber et al., 2009). Iridovirus gây tăng trên thế giới. Ở Việt Nam có tiềm năng lớn bệnh cho cá Bá chủ (BCIV) có liên quan gần cho phát triển cá cảnh do có khí hậu nhiệt đới gũi với virus gây bệnh hoại tử lá lách và thận phù hợp cùng với nguồn lợi thủy sinh tự nhiên (ISKNV) và loài Megalocytivirus này cũng gây phong phú và đa dạng trên hệ thống kênh, sông bệnh cho cá vền biển đỏ, cá vền đá, cá đù vàng và hơn 3.000 km bờ biển trải dài là điều kiện lớn và cá Mú chấm cam (Weber et al., 2009). rất thuận lợi cho sự phát triển nghề cá cảnh, Loài Megalocytivirus là một trong những loài đặc biệt phù hợp cho sự sinh sản và phát triển virus gây bệnh nguy hiểm nhất với tỉ lệ gây chết các loài cá cảnh nhiệt đới. Người chơi cá cảnh lên đến 100%. Chúng được ghi nhận là tác nhân ở nước ta đang có xu hướng chuyển dần sang gây bệnh trên một số loài cá biển và cá nước chơi các loài cá cảnh biển do chúng có nhiều ngọt kể cả cá cảnh được xuất khẩu từ vùng biển màu sắc đẹp, đa dạng về thành phần loài. Cá Nam Trung Quốc và một vài nước Đông Nam Bá Chủ là loài có giá trị kinh tế cao, chúng có Á (Wang et al., 2007). Tuy nhiên, cho đến nay màu sắc đẹp và dễ nuôi nên đang được người vẫn chưa có nghiên cứu về sự nhiễm nấm bệnh chơi cá cảnh ngày càng ưa chuộng. Điều này trên trứng trong giai đoạn ấp trứng. Vì vậy trong sẽ giúp gia tăng số lượng và giá trị của cá nhân nghiên cứu này nhằm xác định nấm gây hỏng nuôi sinh sản nhân tạo và làm giảm áp lực cho trứng trong quá trình ấp trứng của cá Bá Chủ nguồn cá tự nhiên, đồng thời đem lại nguồn lợi hiện nay. to lớn cho nghề nuôi trồng cá cảnh của nước ta. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP Trên thế giới có nhiều công trình nghiên 2.1. Vật liệu cứu về bệnh nấm ở động vật thủy sản như một số loài nấm bất toàn thuộc các giống Các chủng nấm đã được phân lập từ 4 mẫu như Fusarium, ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: