Danh mục

Xây dựng chỉ số căng thẳng tài chính kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 830.29 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết tập trung nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc và Hi Lạp trong việc xây dựng FSI, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết trong việc xây dựng FSI cho Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xây dựng chỉ số căng thẳng tài chính kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ Xây dựng chỉ số căng thẳng tài chínhkinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam Vũ Thị Kim Oanh Ngày nhận: 08/01/2018 Ngày nhận bản sửa: 21/01/2018 Khu vực tài chính với cấu trúc phức tạp có mối liên kết mật thiết, tác động qua lại tới nền kinh tế thực của mỗi quốc gia. Các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy sự ổn định của hệ thống tài chính không chỉ là điều kiện mà còn là nền tảng cho phát triển kinh tế bền vững. Do đó, các nghiên cứu về việc xây dựng Chỉ số căng thẳng tài chính (Financial Stress Index- FSI) để đo lường sự bất ổn của hệ thống tài chính, từ đó đưa ra những dấu hiệu cảnh báo sớm nhằm ngăn ngừa căng thẳng tài chính có thể xảy ra có ý nghĩa vô cùng quan trọng với sự ổn định và bền vững của tăng trưởng kinh tế. Trong bài báo này tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc và Hi Lạp trong việc xây dựng FSI, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết trong việc xây dựng FSI cho Việt Nam. Từ khóa: Chỉ số căng thẳng tài chính, bất ổn tài chính, căng thẳng ngân hàng, căng thẳng thị trường tiền tệ, căng thẳng thị trường ngoại hối, căng thẳng thị trường chứng khoán 1. Kinh nghiệm xây dựng chỉ số căng thẳng tài chính tại một số quốc gia 1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc rong những thập kỉ qua, mặc dù chưa có một cuộc khủng hoảng tài chính thật © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X sự nào diễn ra ở Trung Quốc, nhưng kể từ năm 1978, Trung Quốc đã trải qua nhiều giai đoạn bất ổn tài chính. Tình trạng nợ xấu quá cao của khu vực ngân hàng Trung Quốc đã ảnh hưởng đến sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng, làm suy giảm sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững của Trung Quốc giai đoạn giữa những 68 Ngày duyệt đăng: 23/04/2018 năm 1990. Trong phần này, tác giả xem xét phương pháp xây dựng chỉ số căng thẳng của Sun và Huang (2016). FSI của Trung Quốc được thiết kế nhằm xác định mức độ nghiêm trọng của bất ổn khu vực tài chính ở Trung Quốc, bao gồm 8 biến số của 4 thị trường: chênh lệch rủi ro của ngân hàng, tỉ lệ nợ xấu, tỉ lệ cho vay/huy động của ngành ngân hàng; chỉ số chứng khoán Thượng Hải cho thị trường chứng khoán; tỉ giá hối đoái và dữ trữ ngoại hối cho thị trường ngoại hối; chênh lệch rủi ro và chênh lệch lợi tức trái phiếu chính phủ (TPCP) cho thị trường nợ. (i) Khu vực ngân hàng Để phản ánh căng thẳng của khu vực ngân hàng, các biến số sau đã được lựa chọn: (1) Chênh lệch rủi ro: Chênh lệch rủi ro khu vực ngân hàng chính là chênh lệch giữa lãi suất có rủi ro và lãi suất phi rủi ro để phản ánh căng thẳng thanh khoản liên ngân hàng và dự tính về rủi ro vỡ nợ. Chênh Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 191- Tháng 4. 2018 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ Hình 1. FSI khu vực ngân hàng Trung Quốc (BankFSI) Hình 2. FSI thị trường chứng khoán (SMFSI) Hình 3. FSI thị trường ngoại hối Trung Quốc (EMFSI) Hình 4. FSI thị trường nợ Trung Quốc (DMFSI) Nguồn: Nghiên cứu của Sun và Huang (2016) lệch rủi ro liên ngân hàng được xác định bằng chênh lệch giữa lãi suất cho vay 3 tháng trên thị trường liên ngân hàng Trung Quốc với lãi suất TPCP 3 tháng. (2) Tỉ lệ nợ xấu: Tỉ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước được lựa chọn để phản ánh căng thẳng của khu vực ngân hàng ở Trung Quốc, do vốn của các NHTM nhà nước chiếm phần lớn trong tổng vốn điều lệ của ngành Ngân hàng Trung Quốc1. (3) Tỉ lệ cho vay/huy động: Biến số này phản ánh căng thẳng và rủi ro vỡ nợ của khu vực ngân hàng Trung Quốc. FSI cho khu vực ngân hàng: Sử dụng phương pháp trọng Theo NHTW Trung Quốc, vốn của các NHTM Nhà nước chiếm tới hơn 70% tổng vốn điều lệ ngành ngân hàng. 1 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng số phương sai bằng nhau, nghiên cứu đã xây dựng chỉ số căng thẳng khu vực ngân hàng Trung Quốc từ năm 1997 (Hình 1). Hình 1 cho thấy căng thẳng trong lĩnh vực ngân hàng đạt đỉnh điểm vào năm 1999, trùng với khủng hoảng ngân hàng được xác định vào cuối năm 1998 bởi Leaven và Valencia (2008), sau đó chỉ số này dần giảm xuống (sự lành mạnh của ngành Ngân hàng Trung Quốc được cải thiện dần sau năm 2000). (ii) Thị trường chứng khoán Căng thẳng hệ thống và rủi ro của thị trường chứng khoán (TTCK) được đo lường bởi mức biến động chỉ số cổ phiếu- ước lượng bằng mô hình GARCH (1, 1) (Bollerslev và Chou,1992) dựa trên dữ liệu về chỉ số chứng khoán Thượng Hải theo tháng. FSI cho TTCK Trung Quốc (SMFSI) xây dựng bởi mô hình GARCH (1,1) được thể hiện trong Hình 2 cho thấy chỉ số này biến động liên tục trong giai đoạn nghiên cứu. (iii) Thị trường ngoại hối Căng thẳng thị trường ngoại hối Trung Quốc cũng được xác định thông qua mức độ biến động của tỷ giá hối đoái và dự trữ ngoại hối hàng tháng. Theo Balakrishan và các tác giả (2009), chỉ số căng thẳng cho thị trường ngoại hối (EMFSI) được xác định như sau: EMFSI = Det - n De v De DRESt - n DRES v DRES t t t t Số 191- Tháng 4. 2018 69 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ Trong đó: - ∆et phản ánh thay đổi hàng tháng trong tỉ giá hối đoái; - ∆RESt là thay đổi hàng tháng của dự trữ ngoại hối; - µx, σx phản ánh giá trị trung bình và phương sai chuẩn của các biến tương ứng. Hình 3 cho thấy chỉ số EMFSI đã phản ánh rất nhiều giai đoạn có biến động trên thị trường ngoại hối Trung Quốc, bao gồm sự lên giá đột ngột vào cuối năm 1994 và mất giá sau năm 1995 do Chính phủ Trung Quốc thực hiện khuyến khích xuất khẩu, tuyên bố của Chính phủ Trung Quốc về cơ chế tỷ giá thả nổi năm 2005, khủng hoảng tài chính năm 2008 và khủng hoảng nợ công khu vực Châu Âu. (iv) Thị trường nợ Hai chỉ số được sử dụng để phản ánh căng thẳng trên thị trường nợ Trung Quốc là chênh lệch lợi tức trái phiếu, là một chỉ báo hữu ích cho suy thoái2, và chênh lệch TPCP, phản ánh tình trạng thanh khoản quốc tế. Chênh lệch lợi tức trái phiếu: Chênh lệch giữa lợi tức trái phiếu dài hạn (TPCP 10 năm) và lợi tức trái phiếu ngắn hạn (TPCP 1 năm) được xem là chỉ báo cho suy thoái kinh tế và là biến đại diện cho sự ...

Tài liệu được xem nhiều: