Xây dựng khung năng lực số cho sinh viên đại học ngành Giáo dục tiểu học đáp ứng yêu cầu Chương trình giáo dục phổ thông
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.68 MB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết phân tích các nghiên cứu trong và ngoài nước, đưa ra khái niệm “năng lực số”, trình bày khung năng lực số của một số tổ chức; đồng thời đề xuất khung năng lực số cho sinh viên đại học ngành Giáo dục tiểu học với mong muốn sẽ là căn cứ để phát triển chương trình đào tạo phù hợp trong giai đoạn chuyển đổi số hiện nay.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xây dựng khung năng lực số cho sinh viên đại học ngành Giáo dục tiểu học đáp ứng yêu cầu Chương trình giáo dục phổ thông VJE Tạp chí Giáo dục (2024), 24(6), 12-16 ISSN: 2354-0753 XÂY DỰNG KHUNG NĂNG LỰC SỐ CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Trường Sư phạm - Đại học Vinh Nguyễn Trung Kiền Email: kiennt@vinhuni.edu.vn Article history ABSTRACT Received: 04/01/2024 In the context of robust digital transformation in many fields, including Accepted: 04/3/2024 education, the issue of developing digital competencies for learners is an Published: 20/3/2024 important and urgent issue. Consequently, it is necessary for training at educational institutions to focus on developing digital competencies for Keywords pedagogical students, i.e. prospective teachers. The article, based on the Competence, digital analysis of domestic and international research, introduces the concept of competence, digital digital competence and presents the digital competence framework of some competency framework, organizations. The authors also propose a digital competency framework for pedagogical students, university students majoring in primary education with the hope to provide a primary education basis for developing appropriate training programs in the current digital transformation era. The research results can hopefully serve as a reference for digital competencies-based teaching and education and a premise for building training programs and fostering digital competencies for pedagogical students in training establishments and teachers at all school levels.1. Mở đầu Lịch sử thế giới đã trải qua các cuộc cách mạng công nghiệp lớn, làm thay đổi bộ mặt đời sống của con người vàhiện nay đang thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với sự có mặt của các công nghệ tối tân, hiện đại, trí thôngminh nhân tạo, máy móc tự động hoá. Công nghiệp 4.0 đã và đang đưa nhân loại bước vào một kỉ nguyên mới - kỉnguyên số, khi mà mọi mặt của đời sống con người đều gắn liền với việc ứng dụng các công nghệ số, đồng thời cũngxoá nhòa ranh giới giữa thế giới thực và ảo. Việt Nam đã và đang từng bước có những chính sách cụ thể để thúc đẩy chuyển đổi số một cách toàn diện. Thủtướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”(Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020) với những mục tiêu quan trọng đến năm 2025 như: 80% dịch vụ côngtrực tuyến mức độ 4; 100% chế độ báo cáo của Chính phủ đều trực tuyến và số hóa; Việt Nam thuộc nhóm 70 nướcdẫn đầu về chính phủ điện tử..., trong đó lĩnh vực giáo dục được ưu tiên hàng đầu trong chuyển đổi số với những nộidụng cụ thể: Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lí, giảngdạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hìnhthức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa. 100% các cơ sởgiáo dục triển khai công tác dạy học từ xa, trong đó thử nghiệm chương trình đào tạo cho phép HS, sinh viên (SV)học trực tuyến tối thiểu 20% nội dung chương trình. Ứng dụng công nghệ số để giao bài tập về nhà và kiểm tra sựchuẩn bị của HS trước khi đến lớp học (Thủ tướng Chính phủ, 2020). Cùng với việc ban hành chương trình chuyển đổi số của Chính phủ, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cũng đãnghiên cứu và đề xuất khung năng lực số (NLS) cho HS phổ thông, trong đó có khung NLS cho HS tiểu học. Đây làcơ sở để định hướng trong việc dạy học và giáo dục nhằm hình thành các NLS cho HS và là tiền đề để xây dựng cácchương trình đào tạo, bồi dưỡng NLS cho SV sư phạm ở các cơ sở đào tạo và GV ở các cấp học phổ thông. Bài báo phân tích các nghiên cứu trong và ngoài nước, đưa ra khái niệm “NLS”, trình bày khung NLS của mộtsố tổ chức; đồng thời đề xuất khung NLS cho SV đại học ngành Giáo dục tiểu học với mong muốn sẽ là căn cứ đểphát triển chương trình đào tạo phù hợp trong giai đoạn chuyển đổi số hiện nay.2. Kết quả nghiên cứu2.1. Khái niệm “năng lực số” Nguồn gốc hình thành khái niệm “NLS” có thể bắt nguồn từ khái niệm “năng lực thông tin”, “năng lực truyền thông”hay “năng lực ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT)”. Tuy nhiên, ở đây “NLS” được hiểu ở một phạm vi lớn hơn, 12 VJE Tạp chí Giáo dục (2024), 24(6), 12-16 ISSN: 2354-0753không chỉ là mang tính học thuật như các năng lực trên. Theo UNESCO (2018), “NLS” (Digital competencies) là khảnăng truy cập, quản lí, hiểu, tích hợp, giao tiếp, đánh giá và tạo thông tin một cách an toàn và phù hợp thông qua cáccông nghệ kĩ thuật số cho việc làm và khởi nghiệp. Năng lực này bao gồm các năng lực được gọi chung là: hiểu biết vềmáy tính, hiểu biết về CNTT, hiểu biết về thông tin và hiểu biết về truyền thông (Đỗ Văn Hùng, 2021). Theo Uỷ ban và Nghị viện châu Âu, “NLS” là một trong những năng lực cơ bản toàn diện, liên quan đến việc sửdụng công nghệ số một cách tự tin và có tư duy phản biện phục vụ cho học tập, giải trí, công tác và giao tiếp. NLSgồm những kĩ năng cơ bản về CNTT như: Sử dụng máy tính để tìm kiếm, tiếp cận, đánh giá, lưu trữ, tạo ra sản phẩm,trình bày và trao đổi thông tin cũng như g ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xây dựng khung năng lực số cho sinh viên đại học ngành Giáo dục tiểu học đáp ứng yêu cầu Chương trình giáo dục phổ thông VJE Tạp chí Giáo dục (2024), 24(6), 12-16 ISSN: 2354-0753 XÂY DỰNG KHUNG NĂNG LỰC SỐ CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Trường Sư phạm - Đại học Vinh Nguyễn Trung Kiền Email: kiennt@vinhuni.edu.vn Article history ABSTRACT Received: 04/01/2024 In the context of robust digital transformation in many fields, including Accepted: 04/3/2024 education, the issue of developing digital competencies for learners is an Published: 20/3/2024 important and urgent issue. Consequently, it is necessary for training at educational institutions to focus on developing digital competencies for Keywords pedagogical students, i.e. prospective teachers. The article, based on the Competence, digital analysis of domestic and international research, introduces the concept of competence, digital digital competence and presents the digital competence framework of some competency framework, organizations. The authors also propose a digital competency framework for pedagogical students, university students majoring in primary education with the hope to provide a primary education basis for developing appropriate training programs in the current digital transformation era. The research results can hopefully serve as a reference for digital competencies-based teaching and education and a premise for building training programs and fostering digital competencies for pedagogical students in training establishments and teachers at all school levels.1. Mở đầu Lịch sử thế giới đã trải qua các cuộc cách mạng công nghiệp lớn, làm thay đổi bộ mặt đời sống của con người vàhiện nay đang thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với sự có mặt của các công nghệ tối tân, hiện đại, trí thôngminh nhân tạo, máy móc tự động hoá. Công nghiệp 4.0 đã và đang đưa nhân loại bước vào một kỉ nguyên mới - kỉnguyên số, khi mà mọi mặt của đời sống con người đều gắn liền với việc ứng dụng các công nghệ số, đồng thời cũngxoá nhòa ranh giới giữa thế giới thực và ảo. Việt Nam đã và đang từng bước có những chính sách cụ thể để thúc đẩy chuyển đổi số một cách toàn diện. Thủtướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”(Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020) với những mục tiêu quan trọng đến năm 2025 như: 80% dịch vụ côngtrực tuyến mức độ 4; 100% chế độ báo cáo của Chính phủ đều trực tuyến và số hóa; Việt Nam thuộc nhóm 70 nướcdẫn đầu về chính phủ điện tử..., trong đó lĩnh vực giáo dục được ưu tiên hàng đầu trong chuyển đổi số với những nộidụng cụ thể: Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lí, giảngdạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hìnhthức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa. 100% các cơ sởgiáo dục triển khai công tác dạy học từ xa, trong đó thử nghiệm chương trình đào tạo cho phép HS, sinh viên (SV)học trực tuyến tối thiểu 20% nội dung chương trình. Ứng dụng công nghệ số để giao bài tập về nhà và kiểm tra sựchuẩn bị của HS trước khi đến lớp học (Thủ tướng Chính phủ, 2020). Cùng với việc ban hành chương trình chuyển đổi số của Chính phủ, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cũng đãnghiên cứu và đề xuất khung năng lực số (NLS) cho HS phổ thông, trong đó có khung NLS cho HS tiểu học. Đây làcơ sở để định hướng trong việc dạy học và giáo dục nhằm hình thành các NLS cho HS và là tiền đề để xây dựng cácchương trình đào tạo, bồi dưỡng NLS cho SV sư phạm ở các cơ sở đào tạo và GV ở các cấp học phổ thông. Bài báo phân tích các nghiên cứu trong và ngoài nước, đưa ra khái niệm “NLS”, trình bày khung NLS của mộtsố tổ chức; đồng thời đề xuất khung NLS cho SV đại học ngành Giáo dục tiểu học với mong muốn sẽ là căn cứ đểphát triển chương trình đào tạo phù hợp trong giai đoạn chuyển đổi số hiện nay.2. Kết quả nghiên cứu2.1. Khái niệm “năng lực số” Nguồn gốc hình thành khái niệm “NLS” có thể bắt nguồn từ khái niệm “năng lực thông tin”, “năng lực truyền thông”hay “năng lực ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT)”. Tuy nhiên, ở đây “NLS” được hiểu ở một phạm vi lớn hơn, 12 VJE Tạp chí Giáo dục (2024), 24(6), 12-16 ISSN: 2354-0753không chỉ là mang tính học thuật như các năng lực trên. Theo UNESCO (2018), “NLS” (Digital competencies) là khảnăng truy cập, quản lí, hiểu, tích hợp, giao tiếp, đánh giá và tạo thông tin một cách an toàn và phù hợp thông qua cáccông nghệ kĩ thuật số cho việc làm và khởi nghiệp. Năng lực này bao gồm các năng lực được gọi chung là: hiểu biết vềmáy tính, hiểu biết về CNTT, hiểu biết về thông tin và hiểu biết về truyền thông (Đỗ Văn Hùng, 2021). Theo Uỷ ban và Nghị viện châu Âu, “NLS” là một trong những năng lực cơ bản toàn diện, liên quan đến việc sửdụng công nghệ số một cách tự tin và có tư duy phản biện phục vụ cho học tập, giải trí, công tác và giao tiếp. NLSgồm những kĩ năng cơ bản về CNTT như: Sử dụng máy tính để tìm kiếm, tiếp cận, đánh giá, lưu trữ, tạo ra sản phẩm,trình bày và trao đổi thông tin cũng như g ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Khung năng lực số cho sinh viên Giáo dục tiểu học Sinh viên ngành Giáo dục tiểu học Chương trình giáo dục phổ thông Giáo dục đại học Phát triển năng lực sốGợi ý tài liệu liên quan:
-
37 trang 467 0 0
-
31 trang 340 0 0
-
2 trang 295 3 0
-
5 trang 267 0 0
-
Tiểu luận: Sáng tác thiếu nhi của Tô Hoài và tính cách Dế Mèn qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký
17 trang 267 0 0 -
Tài liệu học tập: Cảm thụ văn học và bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiêu học
44 trang 243 1 0 -
10 trang 217 1 0
-
171 trang 209 0 0
-
Chuyển đổi số trong giáo dục đại học – Tác động và giải pháp
7 trang 205 0 0 -
5 trang 195 0 0