Thông tin tài liệu:
Định lượng protein niệu 24 giờ:
+ Tiến hành: - Gom nước tiểu chính xác trong 24h.
- Lắc đều, đo số lượng nước tiểu ghi vào giấy xét nghiệm. - Lấy 10ml nước tiểu gửi tới khoa sinh hoá.
Kết quả sẽ cho protein niệu 24h hoặc có thể cho protein niệu trong một phút, gồm các phương pháp:
. Định lượng protein niệu bằng phương pháp đo độ đục: được dùng là máy quang phổ kế có bước sóng 600nm (nanomet). Máy đo trược tiếp độ đục của nước tiểu khi có protein niệu.
. Định lượng protein niệu bằng phương...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xét nghiệm nước tiểu (Kỳ 3)
Xét nghiệm nước tiểu
(Kỳ 3)
2.1.2. Định lượng protein niệu 24 giờ:
+ Tiến hành:
- Gom nước tiểu chính xác trong 24h.
- Lắc đều, đo số lượng nước tiểu ghi vào giấy xét nghiệm.
- Lấy 10ml nước tiểu gửi tới khoa sinh hoá.
Kết quả sẽ cho protein niệu 24h hoặc có thể cho protein niệu trong một
phút, gồm các phương pháp:
. Định lượng protein niệu bằng phương pháp đo độ đục: được dùng là máy
quang phổ kế có bước sóng 600nm (nanomet). Máy đo trược tiếp độ đục của nước
tiểu khi có protein niệu.
. Định lượng protein niệu bằng phương pháp đo màu:
Được dựa trên nguyên lý: protein cho cùng với đỏpyrogallol/molybdate sẽ
tạo nên phức hợp màu đỏ. Màu đỏ này tỷ lệ thuận với protein và được máy quang
phổ kế đo trực tiếp. Phương pháp này chỉ đo được lượng protein niệu từ >
300mg/lít (30mg/dl) nên cũng hạn chế (vì không biết > 300mg/lít là bao nhiêu và
< 300mg/lít thì máy lại không phát hiện được).
Như vậy 2 phương pháp trên chỉ xác định được macroalbumin niệu mà thôi,
không phát hiện được microalbumin niệu.
Định lượng microalbumin niệu được sử dụng bằng các phương pháp: kỹ
thuật miễn dịch phóng xạ (RIA: radio immuno assay); phương pháp miễn dịch
enzym trong dung dịch hoặc trên băng thử.
+ Trong lâm sàng dựa vào protein niệu/24h để chẩn đoán xác định một số
bệnh thận.
- Protein niệu < 1g/24h: gặp trong viêm thận kẽ, viêm thận-bể thận mãn,
tăng huyết áp, xơ nang thận (nephroangiosclerosis), thận đa nang, thận trong hội
chứng nhiễm khuẩn nặng, sốt cao.
- Protein niệu 2 - 3g/24h: biểu hiện của viêm cầu thận tiên phát hoặc thứ
phát.
- Protein niệu > 3,5g/24h: biểu hiện hội chứng thận hư. Hội chứng thận hư
thường bao gồm:
. Protein niệu > 3,5g/24h.
. Protid máu < 60g/l.
. Albumin máu < 30g/l.
. Cholesterol > 6,5 mmol/l.
. Triglycerid > 2,5 mmol/l.
. Phù rất to và nhanh.
2.2. Xét nghiệm cặn lắng nước tiểu:
Để tìm các thành phần hữu hình trong nước tiểu như: hồng cầu, bạch cầu, tế
bào biểu mô, các loại trụ hình, tinh thể. Có 2 cách: soi tươi và cặn Addis.
2.2.1. Soi tươi: Có thể lấy nước tiểu giữa dòng vào buổi sáng hoặc bất kỳ
trong ngày cho vào ống nghiệm, lấy một giọt nước tiểu không ly tâm soi tươi qua
kính hiển vi với vật kính 10 X.
2.2.2. Cặn Addis:
- 6 h sáng cho bệnh nhân đái hết nước tiểu trong đêm, ghi giờ, uống 200ml
nước sôi để nguội. Sau đó bệnh nhân nằm nghỉ và đái gom vào bô (được rửa sạch
bằng xà phòng). 9 giờ cho bệnh nhân đái lần cuối sau đó đo số lượng nước tiểu và
ghi vào giấy xét nghiệm. Lấy 10ml nước tiểu mang tới khoa xét nghiệm.
2.2.3. Đánh giá kết quả:
+ Bình thường:
- Hồng cầu, bạch cầu niệu không có hoặc có rất ít, một vài tế bào dẹt do tế
bào niêm mạc niệu quản thoái hoá, đôi khi có một vài tinh trùng (nếu ở nam giới).
- Soi tươi có 0 - 1 hồng cầu trong một vi trường, hoặc 3 hồng cầu/1ml.
- Cặn Addis: < 1000 hồng cầu và < 2000 bạch cầu/phút; không có trụ hồng
cầu, trụ niệu, trụ bạch cầu.
+ Đái ra hồng cầu vi thể:
- Soi tươi: 3 hồng cầu/vi trường (++).
5 hồng cầu/vi trường (+++).
- Cặn Addis ³ 1000 hồng cầu/phút.
+ Đái máu đại thể: đái máu với số lượng nhiều, mắt thường nhìn thấy nước
tiểu có màu hồng như nước rửa thịt cho đến màu đỏ, để lâu hồng cầu sẽ lắng
xuống. Lượng máu tối thiểu bắt đầu làm thay đổi màu sắc nước tiểu vào khoảng 1
ml máu trong 1 lít nước tiểu. Soi tươi thấy hồng cầu dày đặc vi trường.
Có thể làm nghiệm pháp 3 cốc để chẩn đoán vị trí chảy máu. Cách làm: cho
bệnh nhân đái một bãi chia làm 3 phần lần lượt vào 3 cốc thuỷ tinh. Nếu lượng
máu nhiều nhất ở cốc đầu tiên thì thường là chảy máu ở niệu đạo; lượng máu
nhiều nhất ở cốc thứ 3 thường chảy máu ở bàng quang; lượng máu tương đương ở
cả 3 cốc thường chảy máu ở thận hoặc niệu quản. Tuy nhiên, liệu pháp này chỉ có
tính chất tương đối. Muốn xác định chính xác thì cần phải có nhiều xét nghiệm
khác.
Trong lâm sàng, đái ra hồng cầu gặp trong các bệnh viêm cầu thận, lao thận
và sỏi tiết niệu (sỏi đài-bể thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang), viêm bàng quang,
ung thư bàng quang; có thể do các bệnh toàn thân (bệnh hệ thống tạo máu, rối loạn
quá trình đông máu). Khoảng 1% các trường hợp đái ra máu không tìm thấy
nguyên nhân.
...