Danh mục

Y ÁN VỀ TIÊU HOÁ - DẠ DẦY LOÉT

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 149.18 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Năm 1959, một nhà thơ, 35 tuổi. Sau một buổi cùng vợ con đi chơi xa về, chợt thấy nhà cửa bị tan hoang vì lụt. Một thời gian sau, ông bị loét dạ dầy, được điều trị theo phép đối chứng liệu pháp (Allopathie) suốt 8 tháng mà không có kết quả. Định mổ nhưng rồi lại không mổ. Lần thứ nhất: châm tả huyệt Thân mạch, Khố phòng (bên phải), Tiểu hải, châm bổ Bá hội, Thiếu hải. Khi châm đến huyệt Khố phòng, bệnh nhân rất đau, toàn thân run lên cầm cập, mồ hôi toát...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y ÁN VỀ TIÊU HOÁ - DẠ DẦY LOÉT Y ÁN VỀ TIÊU HOÁ DẠ DẦY LOÉT (Trích trong ‘L’Acupuncture En Medecinepsycho – Somatique’ – Nouvelle Revue Internationale D’Acupuncture 13 (25 – 34), 1969 của Rabary) Năm 1959, mộ t nhà thơ, 35 tuổi. Sau một buổi cùng vợ con đi chơi xavề , chợt thấ y nhà cửa bị tan hoang vì lụt. Một thời gian sau, ông bị loét dạdầy, được điều trị theo phép đối chứng liệu pháp (Allopathie) suốt 8 thángmà không có kết quả. Định mổ nhưng rồi lại không mổ. Lần thứ nhất: châm tả huyệt Thân mạch, Khố phòng (bên phả i), Tiểuhải, châm bổ Bá hội, Thiếu hải. Khi châm đến huyệt Khố phòng, bệnh nhân rất đau, toàn thân run lêncầm cập, mồ hôi toát ra như tắm. Tuy nhiên, các triệu chứng đó nhẹ dần, rồilại tái phát hai ba lần và hết hẳn. Sau đó còn tiế p tục châm ba lần n ữa với khoảng cách 8 hoặc mườilăm ngày. Ngay từ lần châm thứ nhất, triệu chứng dạ dầy đau đã hết hẳn. Sáu tháng sau, kiể m tra X. quang cho thấy âm tính (hết loét). Bảy năm sau (tức năm 1966), gặp lại bệnh nhân, kết quả vẫn ổn định. DẠ DẦY LOÉT (Trích trong sách ‘Châm Cứu Lâm Chứng Thực Nghiệm’ của Tôn Học Quyền) Bệnh nhân Bành, nam, 30 tuổi, công nhân, nhập điều trị ngoại trúngày 10/09/1966. Đau kịch phát vùng bụng trên khoảng 6 năm và trở nên trầm trọnghơn khoảng hai năm gần đây. Cơn đau bụng thường xuyên xảy ra do lạnhhoặc bất xúc tinh thần. Cơn đau d ữ dộ i thường xuất hiện ở bụng trên và lanra sau lưng, kèm theo nôn mửa, ợ hơi, ợ chua... Khám lâm sàng nhận thấy: bệnh nhân có vẻ mặt khổ sở vì đau, gậphai đầu gối và ôm bụng, rêu lướ i trắng mỏng, mạch hơi Huyền, tim và phổibình thường. Gan có sờ thấy, nhưng lách thì không. X. quang cho thấy phầntrên của tá tràng không được đầy đặn và có một vài hốc lõm. Chẩn đoán là loét tá tràng. Một số điểm ấn đau được tìm thấ y trên các đốt sống ngực III, IV, V,VII, IX. Những huyệt trên đốt sống ngực II, V và IX được châm sâu 1,2 thốnvới thao tác nâng, đẩy và xoay kim. Sau 10 phút thao tác, đau bụng giảm vàsau 30 phút, cơn đau biến mất. lưu kim thêm 30 phút nữa. Ngày hôm sau, chỉ có cả m giác đầ y tức trong dạ dày. Các huyệt ở trên được châm xen kẽ. Sau khi châm 4 lần, tất cả cáctriệu chứng biến mất. Hai năm sau, bệnh nhân bị bả y cơn đau bụng và mỗicơn đau được điều trị bằng phương pháp này. Trong 12 năm sau đó, khôngthấy cơn đau xuất hiện trở lại. 36C- DẠ DẦY LOÉT (Trích trong sách ‘Châm Cứu Lâm Chứng Thực Nghiệm’ củaTôn Học Quyền). Bệnh nhân Chu, nam, 45 tuổi, nông dân, nhập điều trị ngoại trú ngày20/06/1978. Bệnh nhân bị loét dạ dày khoảng gần 10 năm: có một cơn đau kịchphát kèm theo ợ chua, ợ hơi và có cảm giác nóng rát. Ngày 17/4/1963 bệnh nhân bị một cơn đau đột ngột ở dạ dày, sau đóđau dữ dội toàn bụng kèm theo nôn mửa. Khám lâm sàng biểu hiện ấn đau toàn bụng, bụng căng chướng, cocứng cơ thành bụng, mất âm ruột và âm đục vùng gan, vẻ mặt đau đớn vàxanh tái. Chẩn đoán là thủng ổ loét dạ dày. Châm vào các huyệt hoặc vùng có phản ứng đau, ở quanh huyệt Candu (VII.8), Vị du (VII.21) và Vị thương (VII.50), mũi kim xiên xuống góc30o sâu 0,5 - 1 thốn, nâng đẩy và xoay kim mỗ i 10 - 15 phút, lưu kim từ 30 -60 phút. Sau khi rút kim, giác các huyệt đã châm 10 - 15 phút. Ngày châmmột lần, và cách ngày giác một lần. Sau 2 giờ điều trị, đau bụng giảm một cách đáng kể, âm ruột và trungtiện đã có thể nghe được, ấn đau khu trú lại ở vùng bụng trên. Bệnh nhân đãngủ được. Mỗi ngày châm một lần. Tổng cộng năm lần tr ị liệu các triệuchứng biến mất. MIỆNG CHUA (Trích trong ‘Châm Cứu Bách Bệ nh Thực Dụng Nghiệm Phương’của Thẩm Tá Đình – Trung Quốc). Đường Ba Tiết Tú, 31 tuổi, quê ở Trùng Khánh. Bất cứ ăn đường,muối, cơm, uống nước trà đều cảm thấ y miệng chua. Tây y cho là do bao tửdư acid (chất chua), đã dùng thuốc Đông và Tây y nhưng không khỏi. Điều tri: Dựa vào chứng miệng chua, cho rằng bệnh thuộc tạng Can(vì theo sách Nội Kinh vị của Can là vị chua). Châm tả huyệt Thái xung, lưukim 5 phút. Kết quả: Châm xong, bảo người bệnh uống nước thì không còn cảmgiác chua, dần dần miệng hết hẳn vị chua. Giải thích: Chứng miệng chua này, nếu cứ cho rằng do bao tử dư chấtchua, điều trị không kh ỏi, nhưng dựa theo lý luận của cổ nhân cho là do Canbệnh lại có kết quả (Châm Cứu Bách Bệnh Thực Dụng Nghiệ m Phương). ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: