Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 13: KINH CÂN
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 97.16 KB
Lượt xem: 5
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tham khảo tài liệu y học cổ truyền kinh điển - sách linh khu: thiên 13: kinh cân, y tế - sức khoẻ, y dược phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 13: KINH CÂN THIÊN 13: KINH CÂNCân của kinh túc Thiếu dương khởi lên ở đầu ngón chân út, lên trên kết ở mắt cángoài, đi chếch lên để kết ở gối, đi xuống dọc theo mặt ngoài chân, kết ở gót chân,lên để kết ở gót chân phía sau, rồi kết ở kheo chân[1].Chi biệt của nó kết ở phía ngoài bắp chuối, lên đến mép trong giữa kheo chân rồicùng đoạn giữa kheo chân lên trên kết ở mông, lên trên, đi cạnh cột sống lên đếncổ gáy[2].Một nhánh biệt nhập vào và kết ở cuống lưỡi[3].Đường đi thẳng của nó kết ở xương chẩm cốt rồi lên đầu, xuống mặt (trán) rồi kếtở mũi[4].Một nhánh tạo thành màng lưới trên mắt, xuống dưới kết ở gò má dưới mắt[5].Một nhánh từ sau mép sau nách kết ở huyệt Kiên Ngung[6].Một nhánh nhập vào dưới nách, lên trên xuất ra ở Khuyết bồn, lên trên kết ở huyệtHoàn Cốt[7].Một nhánh xuất ra từ Khuyết bồn đi chếch lên xuất ra ở gò má dưới mắt[8].Bệnh của nó sẽ làm cho ngón chân út và ngón chân sưng thủng và đau, kheo chânbị chuột rút, lưng bị ưỡn như muốn gãy, gân gáy bị co rút, vai không đưa cao lênđược, đau từ nách lên đến Khuyết bồn như bó vặn lại, không lắc lư được từ phảihay trái gì cả[9].Phép trị nên châm bằng phép ‘phần châm’ để đuổi hàn tà cho nhanh, không kể sốlần châm, châm cho đến khi hết thì thôi; khi châm nên tìm chỗ nào đau (thốngđiểm) thì xem đó là du huyệt để châm, ta gọi là chứng ‘tý của tháng trọng xuân’vậy[10].· Cân của túc Thiếu dương khởi lên ở ngón chân áp út, phía ngón út, lên trên kết ởmắt cá ngoài, lên trên dọc theo mép ngoài của xương chầy, kết ở mép ngoàigối[11].Một nhánh tách biệt khởi lên ở bên ngoài xương phụ cốt lên cho đến mấu chuyềnlớn, phía trước nó kết ở huyệt Phục Thố, phía sau nó kết ở vùng xương cùng[12].Đường đi thẳng của nó lên trên cưỡi lên vùng mềm của bờ sườn cụt, lên trên đitheo mép trước của sườn, ràng buộc vào vùng ngực, vú, kết ở Khuyết bồn[13].Đường đi thẳng của nó lên trên xuất ra từ nách xuyên qua Khuyết bồn xuất ra ởtrước kinh Thái dương, đi theo sau tai, lên trên đến góc trán, giao hội ở đỉnh đầu, đixuống hàm, rồi lên kết ở xương má dưới mắt[14].Một chi nhánh kết ở đuôi mắt đóng vai trò gìn giữ (duy trì) bên ngoài[15].Khi bệnh, nó sẽ làm chuyển cân ở ngón áp út phía ngón út, dẫn lên đến gối vàchuyển cân ở mép ngoài gối, làm cho gối không co duỗi được, kheo chân bị co rút,mặt trước co giật lên đến háng (mấu chuyền lớn), phía sau làm cho giật đến vùngxương cùng, nó làm đau lan tràn đến bờ dưới sườn cụt, lên trên nó dẫn đến vùngngực, vú và Khuyết bồn cũng đau, gân cổ bị co rút từ trái sang phải, mắt phảikhông mở ra được, lên trên quá góc mặt để cùng vận hành với Kiểu mạch, bên tráilạc với bên phải, cho nên nếu bị thương ở góc trái thì chân phải không cử độngđược, ta gọi tên là ‘duy cân tương giao’[16]. Phép trị là phải châm bằng phép ‘phầnchâm’ để đuổi hàn tà cho nhanh, không kể số lần châm, châm cho đến khi hết bệnhthì thôi; khi châm nên tìm chỗ nào đau (thống điểm) xem đó là du huyệt để châm;ta gọi là chứng ‘tý của tháng mạnh xuân’ vậy[17].· Cân của túc Dương minh khởi lên ở giữa 3 ngón chân, kết ở trên mu bàn chân, đichếch ra ngoài, lên trên gia thêm cho phụ cốt, lên để kết ở mép ngoài gối[18].Đường lên thẳng của nó kết ở mấu chuyền lớn, lên dọc theo hông sườn rồi thuộcvào cột sống[19].Đường đi thẳng của nó lên trên dọc theo xương chầy rồi kết ở gối[20].Một nhánh kết ở ngoài phụ cốt, hợp với kinh Thiếu dương[21].Đường đi thẳng của nó lên trên đi dọc theo huyệt Phục Thố, lên trên kết ở háng, tụlại ở âm khí (bộ sinh dục), lên đến bụng, bổ tán ra đến Khuyết bồn rồi kết lại, lêncổ, lên áp vào miệng, hợp với xương gò má, xuống dưới kết ở mũi, lại lên trên hợpvới kinh Thái dương, (kinh Thái dương tạo thành màng lưới ở trên mắt), kinhDương minh tạo thành màng lưới ở dưới mắt[22].Một nhánh đi từ má lên kết ở trước tai[23].Khi gây bệnh, nó sẽ làm cho chuyển cân từ ngón chân giữa lên đếnxf ống chân,bàn chân bị giật nhảy lên và cứng, vùng huyệt Phục Thố bị chuyển cân, vùng hángbị sưng thủng, bị chứng đồi sán, cân ở bụng bị co giật, dẫn lên đến Khuyết bồn vàmá, miệng bị méo sệch, nếu bệnh cấp thì mắt không nhắm lại được, nếu nhiệt thìcân bị mềm lỏng mắt không mở được, nếu cân ở má bị nhiệt thì nó sẽ làm cho cânbị buông lỏng không co lại được, miệng bị sệ xuống[24].Phép trị là phải dùng “mỡ ngựa”, thoa lên chỗ đang bị co giật, dùng rượu ngâmQuế để bôi vào chỗ bị mềm lỏng, dùng cành Dâu có móc để móc cho miệng đượcngay lại (không còn méo nữa), tức là dùng tro lửa của cành dâu sống đặt vào chỗlõm sâu dưới đất, làm thế nào để cho người bệnh ngồi 1 cách thoải mái, đủ ấm,sau đó dùng mỡ ngựa bôivào nơi má bị co giật, đồng thời cho bệnh nhân uống ítrượu ngon, ăn thịt nướng thơm ngon; người nào không biết uống rượu cũng phải tựmình cố gắng uống cho kỳ được, thoa bóp chỗ đau khoảng 3 lần thì hết bệnh[25].Phép trị n ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 13: KINH CÂN THIÊN 13: KINH CÂNCân của kinh túc Thiếu dương khởi lên ở đầu ngón chân út, lên trên kết ở mắt cángoài, đi chếch lên để kết ở gối, đi xuống dọc theo mặt ngoài chân, kết ở gót chân,lên để kết ở gót chân phía sau, rồi kết ở kheo chân[1].Chi biệt của nó kết ở phía ngoài bắp chuối, lên đến mép trong giữa kheo chân rồicùng đoạn giữa kheo chân lên trên kết ở mông, lên trên, đi cạnh cột sống lên đếncổ gáy[2].Một nhánh biệt nhập vào và kết ở cuống lưỡi[3].Đường đi thẳng của nó kết ở xương chẩm cốt rồi lên đầu, xuống mặt (trán) rồi kếtở mũi[4].Một nhánh tạo thành màng lưới trên mắt, xuống dưới kết ở gò má dưới mắt[5].Một nhánh từ sau mép sau nách kết ở huyệt Kiên Ngung[6].Một nhánh nhập vào dưới nách, lên trên xuất ra ở Khuyết bồn, lên trên kết ở huyệtHoàn Cốt[7].Một nhánh xuất ra từ Khuyết bồn đi chếch lên xuất ra ở gò má dưới mắt[8].Bệnh của nó sẽ làm cho ngón chân út và ngón chân sưng thủng và đau, kheo chânbị chuột rút, lưng bị ưỡn như muốn gãy, gân gáy bị co rút, vai không đưa cao lênđược, đau từ nách lên đến Khuyết bồn như bó vặn lại, không lắc lư được từ phảihay trái gì cả[9].Phép trị nên châm bằng phép ‘phần châm’ để đuổi hàn tà cho nhanh, không kể sốlần châm, châm cho đến khi hết thì thôi; khi châm nên tìm chỗ nào đau (thốngđiểm) thì xem đó là du huyệt để châm, ta gọi là chứng ‘tý của tháng trọng xuân’vậy[10].· Cân của túc Thiếu dương khởi lên ở ngón chân áp út, phía ngón út, lên trên kết ởmắt cá ngoài, lên trên dọc theo mép ngoài của xương chầy, kết ở mép ngoàigối[11].Một nhánh tách biệt khởi lên ở bên ngoài xương phụ cốt lên cho đến mấu chuyềnlớn, phía trước nó kết ở huyệt Phục Thố, phía sau nó kết ở vùng xương cùng[12].Đường đi thẳng của nó lên trên cưỡi lên vùng mềm của bờ sườn cụt, lên trên đitheo mép trước của sườn, ràng buộc vào vùng ngực, vú, kết ở Khuyết bồn[13].Đường đi thẳng của nó lên trên xuất ra từ nách xuyên qua Khuyết bồn xuất ra ởtrước kinh Thái dương, đi theo sau tai, lên trên đến góc trán, giao hội ở đỉnh đầu, đixuống hàm, rồi lên kết ở xương má dưới mắt[14].Một chi nhánh kết ở đuôi mắt đóng vai trò gìn giữ (duy trì) bên ngoài[15].Khi bệnh, nó sẽ làm chuyển cân ở ngón áp út phía ngón út, dẫn lên đến gối vàchuyển cân ở mép ngoài gối, làm cho gối không co duỗi được, kheo chân bị co rút,mặt trước co giật lên đến háng (mấu chuyền lớn), phía sau làm cho giật đến vùngxương cùng, nó làm đau lan tràn đến bờ dưới sườn cụt, lên trên nó dẫn đến vùngngực, vú và Khuyết bồn cũng đau, gân cổ bị co rút từ trái sang phải, mắt phảikhông mở ra được, lên trên quá góc mặt để cùng vận hành với Kiểu mạch, bên tráilạc với bên phải, cho nên nếu bị thương ở góc trái thì chân phải không cử độngđược, ta gọi tên là ‘duy cân tương giao’[16]. Phép trị là phải châm bằng phép ‘phầnchâm’ để đuổi hàn tà cho nhanh, không kể số lần châm, châm cho đến khi hết bệnhthì thôi; khi châm nên tìm chỗ nào đau (thống điểm) xem đó là du huyệt để châm;ta gọi là chứng ‘tý của tháng mạnh xuân’ vậy[17].· Cân của túc Dương minh khởi lên ở giữa 3 ngón chân, kết ở trên mu bàn chân, đichếch ra ngoài, lên trên gia thêm cho phụ cốt, lên để kết ở mép ngoài gối[18].Đường lên thẳng của nó kết ở mấu chuyền lớn, lên dọc theo hông sườn rồi thuộcvào cột sống[19].Đường đi thẳng của nó lên trên dọc theo xương chầy rồi kết ở gối[20].Một nhánh kết ở ngoài phụ cốt, hợp với kinh Thiếu dương[21].Đường đi thẳng của nó lên trên đi dọc theo huyệt Phục Thố, lên trên kết ở háng, tụlại ở âm khí (bộ sinh dục), lên đến bụng, bổ tán ra đến Khuyết bồn rồi kết lại, lêncổ, lên áp vào miệng, hợp với xương gò má, xuống dưới kết ở mũi, lại lên trên hợpvới kinh Thái dương, (kinh Thái dương tạo thành màng lưới ở trên mắt), kinhDương minh tạo thành màng lưới ở dưới mắt[22].Một nhánh đi từ má lên kết ở trước tai[23].Khi gây bệnh, nó sẽ làm cho chuyển cân từ ngón chân giữa lên đếnxf ống chân,bàn chân bị giật nhảy lên và cứng, vùng huyệt Phục Thố bị chuyển cân, vùng hángbị sưng thủng, bị chứng đồi sán, cân ở bụng bị co giật, dẫn lên đến Khuyết bồn vàmá, miệng bị méo sệch, nếu bệnh cấp thì mắt không nhắm lại được, nếu nhiệt thìcân bị mềm lỏng mắt không mở được, nếu cân ở má bị nhiệt thì nó sẽ làm cho cânbị buông lỏng không co lại được, miệng bị sệ xuống[24].Phép trị là phải dùng “mỡ ngựa”, thoa lên chỗ đang bị co giật, dùng rượu ngâmQuế để bôi vào chỗ bị mềm lỏng, dùng cành Dâu có móc để móc cho miệng đượcngay lại (không còn méo nữa), tức là dùng tro lửa của cành dâu sống đặt vào chỗlõm sâu dưới đất, làm thế nào để cho người bệnh ngồi 1 cách thoải mái, đủ ấm,sau đó dùng mỡ ngựa bôivào nơi má bị co giật, đồng thời cho bệnh nhân uống ítrượu ngon, ăn thịt nướng thơm ngon; người nào không biết uống rượu cũng phải tựmình cố gắng uống cho kỳ được, thoa bóp chỗ đau khoảng 3 lần thì hết bệnh[25].Phép trị n ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Sách y học cổ truyền Việt Nam sách kinh điển Dược Học Y học cổ truyền Huyệt đạo Bệnh học thực hành Dược vị giáo dục y học Giáo trình Giáo án Tài liệu y học Bài giảng Y học ngành y họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
thường thức bảo vệ sức khỏe mùa đông: phần 1 - nxb quân đội nhân dân
111 trang 258 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 224 0 0 -
LẬP KẾ HOẠCH GIÁO DỤC SỨC KHỎE
20 trang 203 0 0 -
Giới thiệu môn học Ngôn ngữ lập trình C++
5 trang 181 0 0 -
Một số dấu hiệu bất thường khi dùng thuốc
5 trang 179 0 0 -
Tài liệu hướng dẫn chẩn đoán và can thiệp trẻ có rối loạn phổ tự kỷ: Phần 1
42 trang 168 0 0 -
120 trang 166 0 0
-
6 trang 164 0 0
-
Đề tài tiểu luận: Tổng quan về cây thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị ho
83 trang 160 0 0 -
Hình thành hệ thống điều khiển trình tự xử lý các toán tử trong một biểu thức logic
50 trang 157 0 0