Danh mục

Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 21: HÀN NHIỆT BỆNH

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 113.79 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Da bị hàn nhiệt không thể nằm xuống chiếu được, lông tóc khô, mũi khô hết nhờn, không ra mồ hôi, thủ huyệt lạc của kinh Tam dương (túc Thái dương) nhằm bổ thủ Thái âm[1]. Cơ (nhục) bị hàn nhiệt làm cho phần cơ bị đau, lông tóc bị khô, môi cũng khô mất trơn nhuận, không có mồ hôi, nên thủ huyệt lạc của Tam dương (Thái dương) nhằm đuổi huyết lạc, châm bổ kinh túc Thái âm nhằm làm cho ra mồ hôi[2]. Cốt bị hàn nhiệt, làm cho người bệnh không lúc nào yên, mồ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 21: HÀN NHIỆT BỆNH THIÊN 21: HÀN NHIỆT BỆNHDa bị hàn nhiệt không thể nằm xuống chiếu được, lông tóc khô, mũi khô hết nhờn,không ra mồ hôi, thủ huyệt lạc của kinh Tam dương (túc Thái dương) nhằm bổ thủThái âm[1].Cơ (nhục) bị hàn nhiệt làm cho phần cơ bị đau, lông tóc bị khô, môi cũng khô mấttrơn nhuận, không có mồ hôi, nên thủ huyệt lạc của Tam dương (Thái dương)nhằm đuổi huyết lạc, châm bổ kinh túc Thái âm nhằm làm cho ra mồ hôi[2].Cốt bị hàn nhiệt, làm cho người bệnh không lúc nào yên, mồ hôi chảy rót ra khôngthôi[3]. Nếu răng chưa bị khô thì nên thủ huyệt lạc nơi phía trong đùi kinh Thiếuâm[4]. Nếu răng đã khô thì chết, bất trị[5]. Chứng cốt quyết cũng thế [6].Bệnh Cốt tý làm cho toàn thể khớp xương bị bất dụng mà đau nhức, mồ hôi chảyrót ra, Tâm bị phiền, nên thủ huyệt ở kinh Tam dương để bổ[7].Thân mình nếu có chỗ bị thương, máu ra nhiều, đến nỗi trúng phải Phong Hàn khí,nếu như có khi bị té xuống đất, tứ chi bị buông lỏng không co lại được, gọi làchứng Thể nọa, nên thủ huyệt nơi Tam kết giao dưới rún - Tam kết giao thuộckinh Dương minh và Thái âm, huyệt nằm dưới rốn 3 thốn, tức là huyệt QuanNguyên[8].Chứng Quyết tý là chứng mà khí quyết nghịch (của tam dương) lên trên cho đếnbụng (mà thôi), nên thủ huyệt lạc của (túc Thái) âm và (túc Dương minh), tuynhiên người thầy thuốc nên xem chủ bệnh thuộc kinh nào để mà, nếu thuộc kinhdương minh thì tả, nếu kinh thái âm thì bổ[9]. Động mạch bên cạnh của cổ là huyệtNhân Nghênh, huyệt Nhân Nghênh thuộc kinh Túc Dương minh[10]. Huyệt nằmtrước gân cổ và sau gân cổ, thuộc kinh Túc Dương minh, có tên là Phù Đột[11].Huyệt nằm ở mạch kế bên ngoài thuộc kinh túc Dương minh, có tên là ThiênDũ[12]. Huyệt nằm ở mạch kết bên ngoài nữa thuộc kinh túc Thái dương có tên làThiên Trụ[13]. Huyệt nằm dưới nách thuộc kinh thủ Thái âm, gọi tên là ThiênPhủ[14].Dương tà nghịch ở Dương kinh làm cho đầu đau, ngực bị đầy không thở nổi, thủhuyệt Nhân Nghênh[15].Bị cảm 1 cách nhanh chóng, mạnh bạo, khí nghịch (làm cho cổ họng và lưỡi) bịcứng, thủ huyệt Phù Đột và châm xuất huyết cuống lưỡi[16].Bị điếc 1 cách nhanh chóng, mạnh bạo, khí bị che lấp xuống dưới làm tai và mắtmất sáng, thủ huyệt Thiên Dũ[17].Bị co quắp, động kinh 1 cách nhanh chóng và mạnh bạo, choáng váng làm chochân không còn tuân theo thân mình nữa, thủ huyệt Thiên Trụ[18].Bị chứng đản 1 cách nhanh chóng và mạnh bạo, bên trong bị nghịch, Can và Phếcùng đánh nhau, huyết tràn lên đến mũi và miệng, thủ huyệt Thiên Phủ [19].Trên đây là 5 cánh cửa lớn (Thiên) gọi là Thiên Dũ Ngũ Bộ[20].Kinh thủ Dương minh có đi vào vùng xương má và mũi lan tỏa vùng răng, gọi đâylà Đại Nghênh[21]. Khi răng dưới bị đau nhức thì thủ huyệt của Tý (Thủ) Dươngminh, nếu sợ (uống) lạnh thì châm bổ, nếu không sợ (uống) lạnh thì châm tả[22].Kinh túc Thái dương có đi vào vùng xương má và mũi lan tỏa vùng răng (mạch mànó hợp để đi vào) đó là huyệt Giác Tôn[23] . Khi răng trên bị đau nhức nên thủ cáchuyệt ở vùng trước xương mũi và má, nếu là lúc đang bệnh thì mạch thịnh, thịnhthì nên châm tả, nếu hư thì châm bổ, còn 1 cách nữa đó là thủ các huyệt nằm ởngoài mũi[24].Kinh túc Dương minh có đường đi áp theo mũi nhập vào mặt, gọi nơi đó là huyệtHuyền Lô, (đường đi xuống) thuộc vào miệng, (đường đi lên) đối lại với miệng đểnhập vào mục bản, (dù ở miệng hay là ở mắt) nếu thấy có đi qua (bệnh) thì thủhuyệt châm, châm theo lối tổn hữu dư: tả bớt cái hữu dư và ích bất túc, bổ thêmcho cái bất túc, nếu châm ngược lại thì bệnh càng nặng[25].Kinh túc Thái dương có đường thông với cổ gáy nhập vào não, đây chính là thuộcvào gốc của mắt, gọi là Nhân hệ[26]. Khi đầu hay mắt bị đau, thủ huyệt nằm ở giữa2 đường gân giữa cổ nhập vào não, đây là nơi tương biệt với mạch Âm kiểu vàDương kiểu, là nơi giao hội giữa các đường kinh Âm Dương, là nơi mà mạchDương (Kiểu) nhập vào Âm, và mạch Âm (Kiểu) xuất ra ở Dương để rồi giao nhauở khoé mắt ngoài (trong), khi nào Dương khí thịnh thì mắt mở trừng, khi nào Âmkhí thịnh thì mắt nhắm lại[27].Chứng Nhiệt quyết nên thủ huyệt ở kinh túc Thái âm và Thiếu dương, tất cả đềunên lưu kim lâu[28]. Chứng Hàn quyết nên thủ huyệt ở kinh túc Dương minh vàtúc Thiếu âm, tất cả đều nên lưu kim lâu[29].Lưỡi bị chảy nước dãi xuống, lòng phiền muộn, thủ huyệt ở kinh túc Thiếu âm[30].Người bị lạnh run, hai hàm đánh nhau, không ra mồ hôi, bụng bị trướng, lòngphiền muộn, thủ huyệt ở kinh thủ (Thái) âm[31].Châm bệnh hư, nên châm lúc nó ra đi, châm bệnh thực nên châm lúc nó đến[32].Mùa xuân thủ huyệt ở lạc mạch, mùa hạ thủ ở phận nhục và tấu lý, mùa thu thủhuyệt ở Khí Khẩu, mùa đông thủ huyệt kinh du[33]. Phàm trong tứ thời, mỗi thờiphải lấy thống nhất (tề) làm chính: Lạc mạch trị bì phu, phận nhục và tấu lý trị cơnhục, khí khẩu trị cân mạch, kinh du trị cốt tủy[34].Ngũ tạng khí biểu lộ ra thân gồm 5 bộ (v ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: