Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 44: THUẬN KHÍ NHẤT NHẬT PHÂN VI TỨ THỜI
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 113.19 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hoàng Đế hỏi: "Ôi ! Trăm bệnh bắt đầu sinh ra, đều khởi lên ở các khí Táo Thấp Hàn Thử Phong Vũ, Âm Dương, vui mừng, giận dữ , ăn uống, cư xử, các khí hợp lại để biểu hiện ra hình dáng, khi gây bệnh ở tạng nào đều có tên gọi[1]. Những điều nói trên, ta đều biết cả rồi, nhưng có một điều là trăm bệnh xảy ra đa số đều theo lẽ đán huệ (sớm) thì dễ chịu, trú an (sáng vẫn an lành), tịch gia (chiều đến thì tăng lên), dạ thậm (giữa đêm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 44: THUẬN KHÍ NHẤT NHẬT PHÂN VI TỨ THỜI THIÊN 44: THUẬN KHÍ NHẤT NHẬT PHÂN VI TỨ THỜIHoàng Đế hỏi: Ôi ! Trăm bệnh bắt đầu sinh ra, đều khởi lên ở các khí Táo ThấpHàn Thử Phong Vũ, Âm Dương, vui mừng, giận dữ , ăn uống, cư xử, các khí hợplại để biểu hiện ra hình dáng, khi gây bệnh ở tạng nào đều có tên gọi[1]. Nhữngđiều nói trên, ta đều biết cả rồi, nhưng có một điều là trăm bệnh xảy ra đa số đềutheo lẽ đán huệ (sớm) thì dễ chịu, trú an (sáng vẫn an lành), tịch gia (chiều đến thìtăng lên), dạ thậm (giữa đêm thì nặng hơn), Tại sao thế ?”[2]Kỳ Bá đáp : “Đó là do khí của tứ thời (bốn mùa) đã khiến như vậy”[3].Hoàng Đế hỏi: “Ta mong được nghe về khí của tứ thời”[4].Kỳ Bá đáp : “Mùa xuân Sinh, mùa hạ Trưởng, mùa thu Thâu, mùa đông Tàng, đólà lẽ thường của khí, (khí) của con ngươiø cũng ứng theo lẽ đó[5]. Vì mỗi ngàycũng phân làm tứ thời: buổi sáng thuộc mùa xuân, giữa trưa thuộc mùa hạ, mặttrời lặn thuộc mùa thu, dạ nửa đêm thuộc mùa đông[6]. Buổi sáng là lúc nhân khí(Dương khí) bắt đầu sinh, bệnh khí đang suy, cho nên gọi là huệ; buổi trưa là lúcnhân khí Trưởng, mà nhân khí đang Trưởng, nó sẽ thắng tà khí, cho nên gọi là an;buổi chiều tối là lúc nhân khí bắt đầu suy, tà khí bắt đầu sinh, cho nên gọi là gia;lúc nửa đêm, nhân khí nhập vào trong để tàng, chỉ còn tà khí ở một mình bên ngoàithân, cho nên gọi là thậm”[7].Hoàng Đế hỏi: “Vấn đề ứng với thời kỳ này có khi nghịch lại, tại sao ?”[8].Kỳ Bá đáp : “Đây là trường hợp không ứng với khí của tứ thời, mỗi tạng 1 mìnhchủ lấy bệnh của mình, vì thế xem tạng khí nào không thắng thời thì bệnh nặng, vàxem tạng khí nào thắng thời thì khỏi”[9].Hoàng Đế hỏi: “Phép trị phải thế nào ?”[10].Kỳ Bá đáp : “Nếu thuận với thời của Thiên thì bệnh có thể trị đúng lúc, người thầynào trị theo lẽ thuận được gọi là khéo, người nào trị theo lẽ nghịch gọi là vụngvề”[11].Hoàng Đế nói: “Đúng vậy ! “[12].Hoàng Đế hỏi: “Ta nghe nói phép châm có ngũ biến để chủ cho ngũ du huyệt, Tamong được nghe về con số ngũ biến ấy”[13].Kỳ Bá đáp : “Con người có ngũ tạng, ngũ tạng có ngũ biến, ngũ biến có ngũ du,cho nên ngũ ngũ thành nhị thập ngũ du, nhằm ứng với ngũ thời ! “[14].Hoàng Đế hỏi: “Ta mong được nghe về ngũ biến”[15].Kỳ Bá đáp : “Can thuộc mẫu tạng (tạng đực), Dương, sắc của nó xanh, thời của nólà mùa xuân, âm của nó là giốc, vị của nó chua, nhật của nó là Giáp Ất[16]. Tâmthuộc mẫu tạng, sắc của nóđỏ, thời của nó là mùa hạ, nhật của nó là Bính Đinh, âmcủa nó là chủy, vị của nó đắng[17]. Tỳ thuộc tẫn tạng (tạng cái), Âm, sắc của nóvàng, thời của nó là trưởng hạ, nhật của nó là Mậu Kỷ, âm của nó là cung, vị củanóngọt[18]. Phế thuộc tẫn tạng (tạng cái), sắc của nó trắng, âm của nó thương, thờicủa nó là mùa thu, nhật của nó là Canh Tân, vị của nó cay[19]. Thận thuộc tẫntạng, sắc của nó đen, thời của nó là mùa đông, nhật của nó là Nhâm Qúy, âm củanó là vũ, vị của nómặn; ta gọi đây là ngũ biến”[20].Hoàng Đế hỏi: “Vấn đề chủ ngũ du như thế nào ?”[21].Kỳ Bá đáp : “Tạng chủ mùa đông, mùa đông châm huyệt Tỉnh; sắc chủ mùa xuân,mùa xuân châm huyệt Huỳnh; thời chủ mùa hạ, mùa hạ châm huyệt Du; âm chủmùa trưởng hạ, mùa trưởng hạ châm huyệt Kinh; vị chủ mùa thu, mùa thu châmhuyệt Hợp; đây là ngũ biến làm chủ ngũ du huyệt”[22].Hoàng Đế hỏi: “Các huyệt Nguyên hợp với huyệt nào và nó ứng gì đến lục du?”[23].Kỳ Bá đáp : “Chỉ riêng có huyệt Nguyên là không ứng với ngũ thời, nó hợp vớihuyệt Kinh để ứng với con số lục du, Cho nên lục lục là tam thập huyệt lục du?”[24].Hoàng Đế hỏi: “Thế nào gọi là tạng chủ mùa đông, thời chủ mùa hạ, âm chủ mùatrưởng hạ, vị chủ mùa thu, sắc chủ mùa xuân, Ta mong được nghe về nguyên nhânấy”[25].Kỳ Bá đáp : “Bệnh ở tại tạng: châm huyệt Tĩnh; Bệnh biến ở sắc: châm huyệtHuỳnh; Bệnh lúc ngưng lúc nặng: châm huyệt Du; Bệnh có thay đổi ở âm thanh:châm huyệt Kinh; Kinh mạch bị mãn vì huyết, đó là bệnh ở Vị, cùng với chứngbệnh do ăn uống không điều tiết: c ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 44: THUẬN KHÍ NHẤT NHẬT PHÂN VI TỨ THỜI THIÊN 44: THUẬN KHÍ NHẤT NHẬT PHÂN VI TỨ THỜIHoàng Đế hỏi: Ôi ! Trăm bệnh bắt đầu sinh ra, đều khởi lên ở các khí Táo ThấpHàn Thử Phong Vũ, Âm Dương, vui mừng, giận dữ , ăn uống, cư xử, các khí hợplại để biểu hiện ra hình dáng, khi gây bệnh ở tạng nào đều có tên gọi[1]. Nhữngđiều nói trên, ta đều biết cả rồi, nhưng có một điều là trăm bệnh xảy ra đa số đềutheo lẽ đán huệ (sớm) thì dễ chịu, trú an (sáng vẫn an lành), tịch gia (chiều đến thìtăng lên), dạ thậm (giữa đêm thì nặng hơn), Tại sao thế ?”[2]Kỳ Bá đáp : “Đó là do khí của tứ thời (bốn mùa) đã khiến như vậy”[3].Hoàng Đế hỏi: “Ta mong được nghe về khí của tứ thời”[4].Kỳ Bá đáp : “Mùa xuân Sinh, mùa hạ Trưởng, mùa thu Thâu, mùa đông Tàng, đólà lẽ thường của khí, (khí) của con ngươiø cũng ứng theo lẽ đó[5]. Vì mỗi ngàycũng phân làm tứ thời: buổi sáng thuộc mùa xuân, giữa trưa thuộc mùa hạ, mặttrời lặn thuộc mùa thu, dạ nửa đêm thuộc mùa đông[6]. Buổi sáng là lúc nhân khí(Dương khí) bắt đầu sinh, bệnh khí đang suy, cho nên gọi là huệ; buổi trưa là lúcnhân khí Trưởng, mà nhân khí đang Trưởng, nó sẽ thắng tà khí, cho nên gọi là an;buổi chiều tối là lúc nhân khí bắt đầu suy, tà khí bắt đầu sinh, cho nên gọi là gia;lúc nửa đêm, nhân khí nhập vào trong để tàng, chỉ còn tà khí ở một mình bên ngoàithân, cho nên gọi là thậm”[7].Hoàng Đế hỏi: “Vấn đề ứng với thời kỳ này có khi nghịch lại, tại sao ?”[8].Kỳ Bá đáp : “Đây là trường hợp không ứng với khí của tứ thời, mỗi tạng 1 mìnhchủ lấy bệnh của mình, vì thế xem tạng khí nào không thắng thời thì bệnh nặng, vàxem tạng khí nào thắng thời thì khỏi”[9].Hoàng Đế hỏi: “Phép trị phải thế nào ?”[10].Kỳ Bá đáp : “Nếu thuận với thời của Thiên thì bệnh có thể trị đúng lúc, người thầynào trị theo lẽ thuận được gọi là khéo, người nào trị theo lẽ nghịch gọi là vụngvề”[11].Hoàng Đế nói: “Đúng vậy ! “[12].Hoàng Đế hỏi: “Ta nghe nói phép châm có ngũ biến để chủ cho ngũ du huyệt, Tamong được nghe về con số ngũ biến ấy”[13].Kỳ Bá đáp : “Con người có ngũ tạng, ngũ tạng có ngũ biến, ngũ biến có ngũ du,cho nên ngũ ngũ thành nhị thập ngũ du, nhằm ứng với ngũ thời ! “[14].Hoàng Đế hỏi: “Ta mong được nghe về ngũ biến”[15].Kỳ Bá đáp : “Can thuộc mẫu tạng (tạng đực), Dương, sắc của nó xanh, thời của nólà mùa xuân, âm của nó là giốc, vị của nó chua, nhật của nó là Giáp Ất[16]. Tâmthuộc mẫu tạng, sắc của nóđỏ, thời của nó là mùa hạ, nhật của nó là Bính Đinh, âmcủa nó là chủy, vị của nó đắng[17]. Tỳ thuộc tẫn tạng (tạng cái), Âm, sắc của nóvàng, thời của nó là trưởng hạ, nhật của nó là Mậu Kỷ, âm của nó là cung, vị củanóngọt[18]. Phế thuộc tẫn tạng (tạng cái), sắc của nó trắng, âm của nó thương, thờicủa nó là mùa thu, nhật của nó là Canh Tân, vị của nó cay[19]. Thận thuộc tẫntạng, sắc của nó đen, thời của nó là mùa đông, nhật của nó là Nhâm Qúy, âm củanó là vũ, vị của nómặn; ta gọi đây là ngũ biến”[20].Hoàng Đế hỏi: “Vấn đề chủ ngũ du như thế nào ?”[21].Kỳ Bá đáp : “Tạng chủ mùa đông, mùa đông châm huyệt Tỉnh; sắc chủ mùa xuân,mùa xuân châm huyệt Huỳnh; thời chủ mùa hạ, mùa hạ châm huyệt Du; âm chủmùa trưởng hạ, mùa trưởng hạ châm huyệt Kinh; vị chủ mùa thu, mùa thu châmhuyệt Hợp; đây là ngũ biến làm chủ ngũ du huyệt”[22].Hoàng Đế hỏi: “Các huyệt Nguyên hợp với huyệt nào và nó ứng gì đến lục du?”[23].Kỳ Bá đáp : “Chỉ riêng có huyệt Nguyên là không ứng với ngũ thời, nó hợp vớihuyệt Kinh để ứng với con số lục du, Cho nên lục lục là tam thập huyệt lục du?”[24].Hoàng Đế hỏi: “Thế nào gọi là tạng chủ mùa đông, thời chủ mùa hạ, âm chủ mùatrưởng hạ, vị chủ mùa thu, sắc chủ mùa xuân, Ta mong được nghe về nguyên nhânấy”[25].Kỳ Bá đáp : “Bệnh ở tại tạng: châm huyệt Tĩnh; Bệnh biến ở sắc: châm huyệtHuỳnh; Bệnh lúc ngưng lúc nặng: châm huyệt Du; Bệnh có thay đổi ở âm thanh:châm huyệt Kinh; Kinh mạch bị mãn vì huyết, đó là bệnh ở Vị, cùng với chứngbệnh do ăn uống không điều tiết: c ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Sách y học cổ truyền Việt Nam sách kinh điển Dược Học Y học cổ truyền Huyệt đạo Bệnh học thực hành Dược vị giáo dục y học Giáo trình Giáo án Tài liệu y học Bài giảng Y học ngành y họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
thường thức bảo vệ sức khỏe mùa đông: phần 1 - nxb quân đội nhân dân
111 trang 259 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 224 0 0 -
LẬP KẾ HOẠCH GIÁO DỤC SỨC KHỎE
20 trang 205 0 0 -
Giới thiệu môn học Ngôn ngữ lập trình C++
5 trang 182 0 0 -
Một số dấu hiệu bất thường khi dùng thuốc
5 trang 180 0 0 -
Tài liệu hướng dẫn chẩn đoán và can thiệp trẻ có rối loạn phổ tự kỷ: Phần 1
42 trang 170 0 0 -
6 trang 167 0 0
-
120 trang 166 0 0
-
Đề tài tiểu luận: Tổng quan về cây thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị ho
83 trang 161 0 0 -
Hình thành hệ thống điều khiển trình tự xử lý các toán tử trong một biểu thức logic
50 trang 159 0 0