Danh mục

Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 47: BẢN TẠNG

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 125.54 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo tài liệu y học cổ truyền kinh điển - sách linh khu: thiên 47: bản tạng, y tế - sức khoẻ, y dược phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 47: BẢN TẠNG THIÊN 47: BẢN TẠNGHoàng Đế hỏi Kỳ Bá: “Huyết, khí, tinh, thần của con người là nhằm phụng cho sựsống và chu hành tròn vẹn cho tính và mệnh[1]. Kinh mạch là nhằm vận hành chohuyết khí, mở rộng cho Âm Dương, làm trơn nhuận cho cân cốt, làm thông lợi chocác khớp xương[2]. Vệ khí là nhằm làm ấm cho vùng phận nhục, làm sung chovùng bì phu, làm đạt cho tấu lý, làm chủ cho sự đóng mở [3]. Chí ý là nhằm gìngiữ được tinh thần, thu được hồn phách, thích ứng được với ấm lạnh, điều hòađược sự vui giận[4]. Cho nên khí huyết được hòa thì kinh mạch được lưu hành, mởrộng và gìn giữ được Âm Dương, cân cốt được rắn chắc, các quan tiết (khớpxương) được thanh lợi[5]. Khi vệ khí được hòa thì vùng phận nhục được giải vàđược thông lợi, bì phu được điều hòa và mềm mại, tấu lý được kín đáo[6]. Khi chíý được hòa thì tinh thần được chuyên nhất và chính trực, hồn phách không bị tán,hối hận và nộ khí không bị xảy ra, do đó mà ngũ tạng không bị thọ tà[7]. Khi sựấm lạnh được hòa thì lục phủ hóa được cốc khí, chứng Phong tý không phát tác,kinh mạch được thông lợi, tay chân và các khớp xương được an lành vậy[8]. Đâylà nói về trường hợp thường bình của con người[9].Ngũ tạng có nhiệm vụ tàng giữ tinh thần, huyết khí, hồn phách[10]. Lục phủ cónhiệm vụ tiêu hóa thủy cốc, vận hành tân dịch[11]. Đây là nói về con người nhậnđược đầy đủ khí của Thiên, không phân biệt kẻ ngu, bậc trí, bậc hiền, kẻ bấttiếu[12]. Tuy nhiên, có những người riêng mình hưởng được tuổi thọ của Trời màkhông bao giờ bị bệnh bởi tà khí bên ngoài, trăm tuổi cũng không suy yếu[13]. Tuyrằng họ có phạm phải khí Phong vũ, lạnh căm, nóng bức, tất cả vẫn không làm hạiđược đến họ[14]. Cũng có những người, tuy chưa bao giờ rời khỏi sự che chở củamàn che, sáo phủ, chưa bao giờ phải lo sợ bởi những điều lo lắng, suy nghĩ, vậymà họ không tránh được bệnh, tại sao vậy ? Ta mong được nghe về những nguyênnhân ấy”[15].Kỳ Bá đáp : Thật là 1 câu hỏi đầy hiểm hóc ! Ngũ tạng có nhiệm vụ tham vớiThiên Địa, phối với Âm Dương để mà thống với tứ thời, hóa với ngũ tiết, vì thếcho nên ngũ tạng có dạng Tiểu, Đại, Cao, Hạ, Kiên Thúy, Đoan Chính, ThiênKhuynh[16]. Lục phủ cũng có dạng Tiểu, Đại, Trường, Đoản, Hậu, Bạc, Kết, Trực,Hoãn, Cấp, tất cả 25 dạng trên, mỗi dạng đều không đồng nhau, có khi thiện, cókhi ác, có khi cát, có khi hung[17]. Nay xin nói về phương hướng của nó: TâmTiểu thì được an, tà khí không làm cho thương được, nhưng dễ bị làm thương bởiưu (lo lắng)[18]; Tâm Đại thì sự lo lắng không làm cho thương được, nhưng lại dễbị thương bởi tà khí[19]; Tâm Cao thì dễ bị tràn đầy lên đến giữa Phế, hay bứt rứtvà dễ quên, khó mở miệng để nói[20]; Tâm Kiên (rắn) thì tạng được an, gìn giữvững chắc[21]; Tâm Thúy (mềm) thì dễ bị bệnh Tiêu đơn, nhiệt bên trong[21];Tâm Đoan chính (ngay thẳng) thì được hòa lợi, khó bị thương[22]; Tâm Thiênkhuynh (nghiêng lệch) thì sự nắm giữ bất nhất, không có gì để gìn giữ và nắmgiữ[23].Phế Tiểu thì ít uống, không bị bệnh suyễn khò khè[24]; Phế Đại thì uống nhiều, dễbị bệnh Hung tý và Hầu tý, nghịch khí[25]; Phế Cao thì khí bị xung lên, phải rútvai lại lấy hơi thở để ho[26]; Phế Hạ tức là Phế nằm thấp xuống vùng bí môn củaVị hoãn và vùng này luôn bức bách Phế, thường hay đau vùng dưới hôngsườn[27]; Phế Kiên thì sẽ không bị bệnh ho mà khí xung lên[28]; Phế Thùy (mềm)thì sẽ bị bệnh Tiêu đơn dễ bị thương[29]; Phế Đoan chính thì hòa lợi, khó bịthương[30]; Phế nghiêng lệch thì vùng ngực bị đau nghiêng 1 bên[31].Can Tiểu thì tạng được an, không bị bệnh ở vùng dưới hông sườn[32]; Can Đại nósẽ bức đến Vị mà bên trên bức đến cổ họng, như vậy nó sẽ làm đau vùng trên cáchmạc, đồng thời còn làm cho đau dưới hông sườn[33]; Can Cao sẽ chống vào vùngbí môn, và bức sát vào vùng hông sườn, bứt rứt, thở mạnh[34]; Can Hạ sẽ bức đếnVị, dưới hông sườn bị rỗng, dưới hông sườn bị rỗng thì dễ thọ lấy tà khí[35]; CanKiên thì tạng được an, khó bị thương[36]; Can Thúy (mềm) thì sẽ dễ bị bệnh Tiêuđơn, dễ bị thương[37]; Can Đoan chính thì được hòa lợi, khó bị thương[36]; Cannghiêng lệch thì dưới hông sườn bị đau[37].Tỳ Tiểu thì tạng được an, khó bị thương bởi tà khí[38]; Tỳ Đại thì sẽ bị đau ở vùngthịt mềm dưới hông sườn, không đi nhanh được[39]; Tỳ Cao sẽ bị đau từ vùng thịtmềm dẫn đến dưới bờ sườn cụt[40]; Tỳ Hạ sẽ đau vùng dưới dẫn đến Đại trường,đau vùng Đại trường thì tạng sẽ nặng vì thọ tà[41]; Tỳ Kiên thì tạng sẽ an, khó bịthương[42]; Tỳ mềm ắt sẽ dễ bị bệnh Tiêu đơn dễ bị thương[43]; Tỳ Đoan chínhthì hòa lợi, khó bị thương[44]; Tỳ nghiêng lệch ắt dễ bị đầy, bị trướng[45].Thận Tiểu thì tạng được an, khó bị thương[46]; Thận Đại thì dễ bệnh đau thắt lưng,không thể cúi ngửa, dễ bị thương bởi tà khí[47]; Thận Cao thì dễ bị đau vùng thịt 2bên cột sống lưng, không cúi ngửa được[48]; Thận Hạ thì thắt lưng và xương cùngcột sống bị đau nhức, không cúi ngửa được, thành chứng Hồ sán[49]; Thận Kiên(rắn) thì ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: