Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên năm mươi tám: KHI HUYẾT LUẬN
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 121.97 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe Khí huyết, có ba trăm sáu mươi nhăm huyệt, để ứng với một năm, xin cho biết rõ là làm sao? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Bối với Tâm cùng rút nhau vào mà đau, nên trị ở Thiên đột, Thập trùy với Thượng kỷ. Thượng kỷ tức là Vị quản: Hạ kỷ tức là Quan nguyên (1) [2]. Hoàng Đế chắp tay, nhường qua một bên, không dám nhận mà nói [3] Tà khí ở bối và Hung, nó liên lạc với âm, dương, tả, hữu như vậy, phát sinh ra bệnh tiền...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên năm mươi tám: KHI HUYẾT LUẬN Thiên năm mươi tám: KHI HUYẾT LUẬN Hoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe Khí huyết, có ba trăm sáu m ươi nhăm huyệt, để ứng với một năm, xin cho biết rõ là làm sao? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Bối với Tâm c ùng rút nhau vào mà đau, nên trị ở Thiên đột, Thập trùy với Thượng kỷ. Thượng kỷ tức là Vị quản: Hạ kỷ tức là Quan nguyên (1) [2]. Hoàng Đế chắp tay, nhường qua một bên, không dám nhận mà nói [3] Tà khí ở bối và Hung, nó liên lạc với âm, dương, tả, hữu như vậy, phát sinh ra bệnh tiền hậu đau và rít, hung hiếp đau không thể thở, không thể nằm, khi nhược lên, ngắn hơi và thiên thống [4]. Mạch của nó “phình to ra”, lệch sang, Khao môn mạch, chằng qua Hung, Hiếp, rẽ vào Tâm suốt lên cách, vòng lên vai, qua Thiên đột, lệch xuống dưới vai, giao ở dưới thập chùy (đốt xương sống thứ mười) [5]. Về Tàng du có năm mươi huyệt (Mỗi Tàng có năm huyệt. Năm lần năm là hai mươi lăm huyệt, mỗi huyệt lại chia làm tả hữu hai huyệt. Nên mới thành năm mươi huyệt) [6]. Phủ du bảy mươi hai huyệt (1) [7]. Sáu Phủ, mỗi Phũ 6 huyết, 6 x 6 = 36. Mỗi huyệt lại chia làm tả hữu hai huyệt, nên mới thành 72 huyệt. Nhiệt du năm mươi chín huyệt (1) [8]. 1) Ở trên đầu có 5 hàng, mỗi hàng 5 huyệt, thành 25 huyệt; Đại chữ. Ưng du, Khuyết bồn, Cốt du, mỗi huyệt có 2, thành 8 huyệt, Khi nhai, Tam lý, Cự h ư, Thượng hạ liêm, mỗi huyệt có 2, thành 8 huyệt; Vân môn, Ngu cốt, Uûy trung, Tủy không, mỗi huyệt có 2, thành 8 huyệt, bên cạnh du của 5 T àng, đều có 2 huyệt, thành 10 huyệt. Hợp cả lại thành 59 huyệt. Thủy du năm mươi bảy huyệt (1) [9]. 1) Trên xương “khu” 5 hàng, mỗi hàng năm huyệt thành 25 huyệt. Trên Phục thổ đều có hai hàng, mỗi hàng có 5 huyệt, thành 20 huyệt, trên Khỏa đều có 1 hàng, mỗi hàng có 6 huyệt, thành 12 huyệt. Tổng cộng thành 57 huyệt. Trở lên cộng 116 huyệt. Trên đầu năm hàng, mỗi hàng năm huyệt. Thành hai mươi lăm huyệt (1). 1) Trên đây lại nói về huyệt của Nhiệt du một lần nữa, vì Nhiệt du tức cũng là Khí huyệt. Do ở nó “có thể lấy khí có thể tả nhiệt” lại có thể khiến nhiệt t à theo khí mà tiết ra, cho nên dưới đây lại nói: “Nhiệt du tại khí huyết”. Hai bên trung l ữ đều có 5, thành 10 huyệt [10]. Trên hai bên Đại trùy, đều có 1, thành 2 huyệt [11]. Phù bạch bên đồng tử mắt có 2 huyệt [12]. L ưỡng bễ áp hai huyệt [13]. Độc Tỵ 2 huyệt [14]. Huyệt Đa sở văn ở giữa tai, 2 huyệt [15] . My bản 2 huyệt [16]. Uyển cốt 2 huyệt [17]. Hàng trung ương m ột huyệt [18]. Chẩm cốt 2 huyệt [19]. ) Th ượng quan hai huyệt [20]. Đại nghinh 2 huyệt [21]. Hạ quan hai huyệt. 23 Thiên trụ 2 huyệt [ 23]. Cự hư, thương, hạ liêm 4 huyệt [24]. Khúc nha 2 huyệt [25]. Thiên đột 1 huyệt [26]. Thiên phủ 2 huyệt [27]. Thiên dũ 2 huyệt [28]. Phù đột 2 huyệt [29]. Thiên song 2 huyệt [30]. Kiên giải 2 huyệt [31]. Quan nguy ên 1 huyệt [32]. Uûy dương 2 huyệt [33]. Kiên trinh 2 huyệt [34]. Aâm môn 1 huyệt [35]. Tề 1 huyệt[36]. Hung du 12 huyệt [37]. Bối du 2 huyệt [38]. Ưng du 12 huyệt [39]. hận phục 2 huyệt [41]. Khỏa thượng hoành 2 huyệt [42]. Aâm, Dương kiêu 4 huyệt. Chiến hải + Thân mạch, Dương phụ [42]. Thủy du ở các phân nhục, nhiệt du tại khi huyết [43]. Hàn nhiệt du tại “l ưỡng hài” (1) áp trung (Điều gốc) 2 huyệt [44]. Một huyệt Đại cấm (cấm rất ngặt) 25 thích, ở d ưới huyệt Thiên phủ 5 tấc (1) [45]. Hoàng Đế nói: Tôi đã được biết rõ Khí huyệt ở những nơi đâu, nhờ có cách dùng châm rất được dễ dàng. Nhưng còn Tôn lạc và Khê, Cốc, tương ứng như thế nào, xin cho biết... [47] Kỳ Bá thưa rằng: Tôn lạc có 365 huyệt hội, cũng để ứng với một năm, vừa để thông Vinh, Vệ, có khi lại sinh những bệnh lạ l ùng [48]. Nếu Vinh, Vệ bị ngừng đọng. Vệ tán, vinh tràn, khí kiệt, huyết nghẽn, thì bên ngoài sẽ phát hàn nhiệt, bên trong thời thành thiểu khí... Phải “tả” ngay đừng chậm, để thông Vinh, Vệ. Vậy thấy sắc. Lạc hiện lên thời tả ngay, không cần phải xét đến “sở hội” (1) [49]. Hoàng Đế hỏi: Xin cho biết huyệt hội của Khê, Cốc thế nào? [50] Kỳ Bá thưa: Nơi đại hội của nhục gọi là Cốc, nơi tiểu hội của Nhục gọi là Khê, ở trong khoảng phận nhục và nơi hội của Khê Cốc, là để hành Vinh, Vệ, để tụ hội đại khí (1) [51]. Tà nhiều, khí nghẽn, mạch nhiệt, nhục bại, vinh vệ không l ưu hành được, sẽ phải hóa thành mủ, trong làm tiêu hao c ốt tủy, ngoài làm nứt vỡ bọng chân... Rồi lưu hành mãi ở các khớp xương, sẽ cùng gây nên tất bệnh [42]. Hàn tích ở bên trong vinh vệ không thuận, thịt nhăn, gân co, khuỷu tay không duỗi ra được. Bên trong thành chứng cốt tý, bên ngoài thành chứng bất nhất. Gọi là “bất túc” đó là bởi khi đại hàn ngừng trệ ở Khê, Cốc mà gây nên [43]. Khê và Cốc, 365 huyệt hội, cũng để ứng với một năm. Nếu khí vít tầm th ường, chí tràn lan đi l ại ở trong mạch, châm nhẹ có thể tới, thời phép châm cũng nh ư các nơi khác [44]. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên năm mươi tám: KHI HUYẾT LUẬN Thiên năm mươi tám: KHI HUYẾT LUẬN Hoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe Khí huyết, có ba trăm sáu m ươi nhăm huyệt, để ứng với một năm, xin cho biết rõ là làm sao? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Bối với Tâm c ùng rút nhau vào mà đau, nên trị ở Thiên đột, Thập trùy với Thượng kỷ. Thượng kỷ tức là Vị quản: Hạ kỷ tức là Quan nguyên (1) [2]. Hoàng Đế chắp tay, nhường qua một bên, không dám nhận mà nói [3] Tà khí ở bối và Hung, nó liên lạc với âm, dương, tả, hữu như vậy, phát sinh ra bệnh tiền hậu đau và rít, hung hiếp đau không thể thở, không thể nằm, khi nhược lên, ngắn hơi và thiên thống [4]. Mạch của nó “phình to ra”, lệch sang, Khao môn mạch, chằng qua Hung, Hiếp, rẽ vào Tâm suốt lên cách, vòng lên vai, qua Thiên đột, lệch xuống dưới vai, giao ở dưới thập chùy (đốt xương sống thứ mười) [5]. Về Tàng du có năm mươi huyệt (Mỗi Tàng có năm huyệt. Năm lần năm là hai mươi lăm huyệt, mỗi huyệt lại chia làm tả hữu hai huyệt. Nên mới thành năm mươi huyệt) [6]. Phủ du bảy mươi hai huyệt (1) [7]. Sáu Phủ, mỗi Phũ 6 huyết, 6 x 6 = 36. Mỗi huyệt lại chia làm tả hữu hai huyệt, nên mới thành 72 huyệt. Nhiệt du năm mươi chín huyệt (1) [8]. 1) Ở trên đầu có 5 hàng, mỗi hàng 5 huyệt, thành 25 huyệt; Đại chữ. Ưng du, Khuyết bồn, Cốt du, mỗi huyệt có 2, thành 8 huyệt, Khi nhai, Tam lý, Cự h ư, Thượng hạ liêm, mỗi huyệt có 2, thành 8 huyệt; Vân môn, Ngu cốt, Uûy trung, Tủy không, mỗi huyệt có 2, thành 8 huyệt, bên cạnh du của 5 T àng, đều có 2 huyệt, thành 10 huyệt. Hợp cả lại thành 59 huyệt. Thủy du năm mươi bảy huyệt (1) [9]. 1) Trên xương “khu” 5 hàng, mỗi hàng năm huyệt thành 25 huyệt. Trên Phục thổ đều có hai hàng, mỗi hàng có 5 huyệt, thành 20 huyệt, trên Khỏa đều có 1 hàng, mỗi hàng có 6 huyệt, thành 12 huyệt. Tổng cộng thành 57 huyệt. Trở lên cộng 116 huyệt. Trên đầu năm hàng, mỗi hàng năm huyệt. Thành hai mươi lăm huyệt (1). 1) Trên đây lại nói về huyệt của Nhiệt du một lần nữa, vì Nhiệt du tức cũng là Khí huyệt. Do ở nó “có thể lấy khí có thể tả nhiệt” lại có thể khiến nhiệt t à theo khí mà tiết ra, cho nên dưới đây lại nói: “Nhiệt du tại khí huyết”. Hai bên trung l ữ đều có 5, thành 10 huyệt [10]. Trên hai bên Đại trùy, đều có 1, thành 2 huyệt [11]. Phù bạch bên đồng tử mắt có 2 huyệt [12]. L ưỡng bễ áp hai huyệt [13]. Độc Tỵ 2 huyệt [14]. Huyệt Đa sở văn ở giữa tai, 2 huyệt [15] . My bản 2 huyệt [16]. Uyển cốt 2 huyệt [17]. Hàng trung ương m ột huyệt [18]. Chẩm cốt 2 huyệt [19]. ) Th ượng quan hai huyệt [20]. Đại nghinh 2 huyệt [21]. Hạ quan hai huyệt. 23 Thiên trụ 2 huyệt [ 23]. Cự hư, thương, hạ liêm 4 huyệt [24]. Khúc nha 2 huyệt [25]. Thiên đột 1 huyệt [26]. Thiên phủ 2 huyệt [27]. Thiên dũ 2 huyệt [28]. Phù đột 2 huyệt [29]. Thiên song 2 huyệt [30]. Kiên giải 2 huyệt [31]. Quan nguy ên 1 huyệt [32]. Uûy dương 2 huyệt [33]. Kiên trinh 2 huyệt [34]. Aâm môn 1 huyệt [35]. Tề 1 huyệt[36]. Hung du 12 huyệt [37]. Bối du 2 huyệt [38]. Ưng du 12 huyệt [39]. hận phục 2 huyệt [41]. Khỏa thượng hoành 2 huyệt [42]. Aâm, Dương kiêu 4 huyệt. Chiến hải + Thân mạch, Dương phụ [42]. Thủy du ở các phân nhục, nhiệt du tại khi huyết [43]. Hàn nhiệt du tại “l ưỡng hài” (1) áp trung (Điều gốc) 2 huyệt [44]. Một huyệt Đại cấm (cấm rất ngặt) 25 thích, ở d ưới huyệt Thiên phủ 5 tấc (1) [45]. Hoàng Đế nói: Tôi đã được biết rõ Khí huyệt ở những nơi đâu, nhờ có cách dùng châm rất được dễ dàng. Nhưng còn Tôn lạc và Khê, Cốc, tương ứng như thế nào, xin cho biết... [47] Kỳ Bá thưa rằng: Tôn lạc có 365 huyệt hội, cũng để ứng với một năm, vừa để thông Vinh, Vệ, có khi lại sinh những bệnh lạ l ùng [48]. Nếu Vinh, Vệ bị ngừng đọng. Vệ tán, vinh tràn, khí kiệt, huyết nghẽn, thì bên ngoài sẽ phát hàn nhiệt, bên trong thời thành thiểu khí... Phải “tả” ngay đừng chậm, để thông Vinh, Vệ. Vậy thấy sắc. Lạc hiện lên thời tả ngay, không cần phải xét đến “sở hội” (1) [49]. Hoàng Đế hỏi: Xin cho biết huyệt hội của Khê, Cốc thế nào? [50] Kỳ Bá thưa: Nơi đại hội của nhục gọi là Cốc, nơi tiểu hội của Nhục gọi là Khê, ở trong khoảng phận nhục và nơi hội của Khê Cốc, là để hành Vinh, Vệ, để tụ hội đại khí (1) [51]. Tà nhiều, khí nghẽn, mạch nhiệt, nhục bại, vinh vệ không l ưu hành được, sẽ phải hóa thành mủ, trong làm tiêu hao c ốt tủy, ngoài làm nứt vỡ bọng chân... Rồi lưu hành mãi ở các khớp xương, sẽ cùng gây nên tất bệnh [42]. Hàn tích ở bên trong vinh vệ không thuận, thịt nhăn, gân co, khuỷu tay không duỗi ra được. Bên trong thành chứng cốt tý, bên ngoài thành chứng bất nhất. Gọi là “bất túc” đó là bởi khi đại hàn ngừng trệ ở Khê, Cốc mà gây nên [43]. Khê và Cốc, 365 huyệt hội, cũng để ứng với một năm. Nếu khí vít tầm th ường, chí tràn lan đi l ại ở trong mạch, châm nhẹ có thể tới, thời phép châm cũng nh ư các nơi khác [44]. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Sách y học cổ truyền Việt Nam sách kinh điển Dược Học Y học cổ truyền Huyệt đạo Bệnh học thực hành Dược vị giáo dục y học Giáo trình Giáo án Tài liệu y học Bài giảng Y học ngành y họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
thường thức bảo vệ sức khỏe mùa đông: phần 1 - nxb quân đội nhân dân
111 trang 258 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 224 0 0 -
LẬP KẾ HOẠCH GIÁO DỤC SỨC KHỎE
20 trang 203 0 0 -
Giới thiệu môn học Ngôn ngữ lập trình C++
5 trang 181 0 0 -
Một số dấu hiệu bất thường khi dùng thuốc
5 trang 179 0 0 -
Tài liệu hướng dẫn chẩn đoán và can thiệp trẻ có rối loạn phổ tự kỷ: Phần 1
42 trang 168 0 0 -
120 trang 166 0 0
-
6 trang 164 0 0
-
Đề tài tiểu luận: Tổng quan về cây thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị ho
83 trang 160 0 0 -
Hình thành hệ thống điều khiển trình tự xử lý các toán tử trong một biểu thức logic
50 trang 157 0 0