Danh mục

Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên sáu mươi sáu: THIÊN NGUYÊN KỶ ĐẠI LUẬN

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 130.33 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo tài liệu y học cổ truyền kinh điển - sách tố vấn: thiên sáu mươi sáu: thiên nguyên kỷ đại luận, y tế - sức khoẻ, y dược phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên sáu mươi sáu: THIÊN NGUYÊN KỶ ĐẠI LUẬN Thiên sáu mươi sáu: THIÊN NGUYÊN KỶ ĐẠI LUẬNHoàng Đế hỏi rằng:Trời có năm hành, trị năm vị, để sinh ra hàn, thử, táo, thấp và phong (1) Ngườicó năm Tàng, hóa sinh năm khí, để sinh ra hỷ, nóä, ưu, tư, khủng (2). TrênLuận nói: năm vận cùng nóái, đều có chủ trị; cứ chọn một năm, “chu” mà lạibắt đầu... Tôi đã hiểu lẽ đó rồi. Xin cho biết cái “hậu” của tam âm, tam d ương,tương hợp như thế nào (3)? [1]1) Năm hành c ủa trời tức là năm khí: Đan là đỏ, Kiềm là vàng. Thương làxanh, Tố là trắng, Huyền là đen, Năm vị, tức là vị của năm phương, mà cũngtức là năm hành c ủa đất. Hàn, thử, táo, thấp, phong tức là 6 khi của trời. Ý đâynói: năm khí của trời, hợp với sự phối hợp của m ười Can, để hóa sinh ra nămhành của đất, năm hành của đất lại sinh ra 6 khi của trời.2) Năm Tàng, tức là do năm hành sinh ra. Khí của năm hành tức là: phong,nhiệt, thấp, táp, hàn. Hỳ nóä, ưu, tư, khủng là “thần chí” của năm Tàng.Ngẫm như: ở giờ là khi, ở đất thành hình, hình khi cùng cảm mà muôn vật hóasinh. Con người nhờ năm hành của đất để gây nên thân hình... Do cái nămTàng có hình để hóa sinh ra năm khí và năm chí... Mà lại thông với thi ên khí.3) “Trên luận”, tức là nói những bài Lục tiết Tàng tượng v.v... Năm vận l à:Năm Giáp, Kỷ thuộc về Thổ vận, năm Aát, Canh thuộc về Kim vận, n ăm Bính,Tân thuộc về Thủy vận, năm Đinh Nhâm thuộc về Mộc vận, năm Mậu, Quýthuộc về hỏa vận. Về tam âm, tam d ương thời, hai năm Tý Ngọ, Thiếu âm làmchủ, hai năm Sửu, Vị (Mùi), Thái âm làm chủ, hai năm Dần, Thân, Thiếudương làm chủ, hai năm Mão, Dậu, Dương minh làm chủ, hai năm Thìn, Tuất,Thái dương làm chủ, hai năm Tỵ, Hợi, quyết âm làm chủ.Quỷ Du Khu vái tay, cúi đầu mà thưa rằng:Năm vận, âm dương là đạo của trời. Nó l à cương kỷ của muôn vật, cha mẹ củabiến hóa, gốc ngọn của sinh sát, v à là cái “phủ” của một sự thần minh đó (1)[2].Vật sinh ra gọi là hóa, vật đến gọi là biến, âm dương khôn lường, gọi là thần;thần dụng vô phương gọi là thánh (2) [3].Cái công dụng của sự biến hóa, ở trời gọi là huyền (1), ở người gọi là đạo (2),ở đất gọi là hóa (3). Do đó hóa sinh ra năm vị (4). Đạo sinh ra trí (5). Huyềnsinh ra thần (6).Thần ở trời là phong, ở đất là mộc, ở trời là nhiệt, ở đất là hỏa, ở trời là thấp, ởđất là thổ, ở trời là táo, ở đất là kim, ở trời là hàn, ở đất là thủy. Cho nên ở trờilà khí, ở đất thành hình. Hình, khi cùng cảm, muôn vật do đó mà sinh ra (1)[5].Vậy nên, trời đất đó là trên dưới của muôn vật, tả hữu đó l à đường lối của âmdương (2), thủy hỏa đó là triệu chứng của khí âm dương (3); Kim, m ộc đó làchung thủy của sự sinh thành (4).Khí có nhiều, ít, hình có thịnh suy. Do sự trên dưới cùng cảm triệu, mà cái khíthái quá hay bất cập càng được rõ ràng.Hoàng Đế hỏi:Xin cho biết năm vận chủ thời, nh ư thế nào? (1) [8].Qủy Du Khu thưa rằng:- Năm khí vận hành, đều chọn cơ nhật (2), không những chủ thời mà thôi [9].Xin cho biết rõ.. [10].Thần xét trong Đại thủy Thiên nguyệt Sách văn chép rằng: “Thái h ư rộngthẳm, gây nên hóa nguyện, muôn vật gây lúc đầu năm vận chọn chu thiên (3);khí tán ra chân linh, tổng thống cả Khôn nguyên (4); chín sao treo sáng, bảyDiệu vòng quanh (5) rằng âm, rằng dương, rằng như, rằng cương (6); u hiển đãxếp hàn, thử, thỉ, trương (7); sinh sinh, hóa hóa, phẩm vật phô bày (8)... Đạo lýđó, truyền tới thần, đã mười đời nay...Hoàng Đế hỏi:- Khí có nhiều ít, hình có thịnh suy, là thế nào? [12].Qủy Du Khu thưa rằng:Khí của âm, dương, có kinh nhiều, có kinh ít, nên gọi là tâm âm, tam dương.“Hình có thịnh suy” là nói về chủ trị của năm hành có thái quá và bất cập (1).Cho nên lúc bắt đầu; do hữu dư mà đi, bất cập sẽ theo; do bất túc mà đi, hữu dưsẽ theo. Biết được nghinh (tức đi) và tùy (tức theo), thời cái khi thái quá haybất cập có thể dự biết đ ược (2) [13].Ưùng với trời là Thiên phù, ứng với năm là Tuế trị; “Tam hợp’ sẽ trị (3) [14].Hoàng Đế hỏi:Trên dưới cùng cảm triệu, là nghĩa thế nào? [15]Quỷ Du Khu thưa rằng:- Hàn, thử, táo, thấp, phong, hỏa... Thuộc về Aâm D ương của trời. Tam âm,tam dương, thượng phụng (như ứng theo) với nó. Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy,Hỏa... Thuộc về Aâm Dương của đất, sinh, trưởng, hóa, thâu, tàng ứng theo vớinó (1) [16].Trời có Aâm Dương để sinh, khí Aâm để trưởng, đất lấy khí Dương để sái(giảm bớt), khí Aâm để tàng (2) [17].Trời có Aâm Dương, đất cũng có Aâm Dương, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy,Hỏa... Đó là Aâm Dương c ủa đất, chủ về sinh, tr ưởng hóa, thâu, tàng. Cho nêntrong Dương có Aâm, trong Aâm có Dương (3) [18].Vì vậy, muốn biết Aâm Dương của trời đất, ứng với khí của trời, động m àkhông ngừng, cho nên cứ hết 5 năm thời “hữu thiên”; ứng với khí của đất, tĩnhmà giữ vị, cho nên cứ hết sáu năm lại hoàn hội (4) [19].Động, tĩnh cùng triệu, trên dưới cùng là, Aâm Dương cùng thay đ ổi, sự biếnhóa do đó mà sinh ra (5) [20].Hoàng Đế hỏi:Trên, dưới, chu, kỷ, có số nhất định c ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: