Danh mục

Y học cổ truyền Việt Nam - Nan Kinh part 3

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 113.90 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ngũ tạng bất hòa thì cửu khiếu không thông. Lục phủ bất hòa thì lưu lại và kết lại thành chứng “ung”. Tà khí ở tại lục phủ thì Dương mạch bất hòa, Dương mạch bất hòa thì khí bị lưu lại, khí bị lưu lại thì Dương mạch bị thịnh. Tà khí ở Ngũ tạng thì Âm mạch bất hòa, Âm mạch bất hòa thì huyết bị lưu lại, huyết bị lưu lại thì Âm mạch bị thịnh. Âm khí quá thịnh thì dương khí không còn được “doanh” nữa, gọi là Cách. Dương khí quá thịnh thì Âm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền Việt Nam - Nan Kinh part 3 Ngũ tạng bất hòa thì cửu khiếu không thông. Lục phủ bất hòa thì lưu lại và kết lạithành chứng “ung”. Tà khí ở tại lục phủ thì Dương mạch bất hòa, Dương mạch bất hòa thì khí bị lưu lại,khí bị lưu lại thì Dương mạch bị thịnh. Tà khí ở Ngũ tạng thì Âm mạch bất hòa, Âmmạch bất hòa thì huyết bị lưu lại, huyết bị lưu lại thì Âm mạch bị thịnh. Âm khí quá thịnhthì dương khí không còn được “doanh” nữa, gọi là Cách. Dương khí quá thịnh thì Âm khíkhông còn được “doanh” nữa, gọi là Quan. Âm Dương đều thịnh không còn cùng“doanh” cho nhau nữa, gọi là Quan Cách. Quan Cách có nghĩa là không còn sống trọntuổi của mình nữa, chết”. “Kinh nói: Khí độc hành ở ngũ tạng mà không còn doanh ở lục phủ, tại sao như vậy ?” Thực vậy: “Sự vận hành của khí ví như dòng nước chảy không được ngừng lại. Chonên Âm mạch thì “doanh” ở ngũ tạng, Dương mạch thì “doanh” ở lục phủ, như chiếcvòng ngọc không đầu mối, không biết đầu mối sợi tơ ở đâu, dứt rồi bắt đầu trở lại, khôngbị tình trạng “phúc dật”. Nhân khí bên trong làm ấm ở tạng phủ, bên ngoài làm trơnnhuận tấu lý”. NAN 38 Điều 38 Nan viết: “Tạng duy chỉ có 5, phủ lại độc có đến 6, tại sao vậy ?”. Thực vậy: “Sở dĩ phủ có đến 6, đó là kể đến Tam tiêu, nó là biệt sứ của nguyên khí, nóchủ trì các khí có danh mà vô hình. Kinh của nó là Thủ Thiếu dương. Đây là phủ bênngoài. Vì thế mới nói phủ có đến 6”. NAN 39 Điều 39 Nan viết: “Kinh nói: Phủ có 5, tạng có 6, thế nghĩa l à thế nào ?”. Thực vậy “(Nói là) lục phủ, nhưng chính là chỉ có ngũ phủ, trong lúc đó ngũ tạng cũngthành có lục tạng, cũng là Thân có đến 2 tạng, tạng ở bên trái thuộc Thận, tạng ở bên phảithuộc Mệnh môn. Mệnh môn là chỗ “ở” của tinh thần. Người con trai dùng nó để tàngchứa tinh khí, người con gái dùng nó để ràng buộc vấn đề bào thai. Khí của nó thông vớiThận, vì thế mới nói tạng gồm có 6 (tạng)”. “Phủ có 5 nghĩa là sao ?”. Thực vậy: “Ngũ tạng, mỗi tạng đều có một phủ, Tam tiêu cũng là một phủ, nhưng lạikhông thuộc vào ngũ tạng, vì thế mới nói phủ chỉ có 5 (phủ)”. NAN 40 Điều 40 Nan viết: “Kinh nói: Can chủ về sắc, Tâm chủ về xú, Tỳ chủ về vị, Phế chủ vềthanh, Thận chủ về dịch. Tỵ (mũi) là nơi biểu hiện của Phế vậy mà nó lại biết được mùithơm, thúi (hôi). Nhĩ (tai) là nơi biểu hiện của Thận vậy mà nó lại nghe được âm thanh. Ýcủa nó thế nào ?”. Thực vậy: “Phế thuộc tây phương Kim. Kim được sinh ra ở tỵ, tỵ thuộc nam phươngHỏa. Hỏa thuộc Tâm, Tâm chủ về xu, vì thế nó khiến cho mũi biết được mùi thơm haythúi. Thận thuộc bắc phương Thủy. Thủy được sinh ra ở thân, thân thuộc tây phươngKim. Kim thuộc Phế, Phế chủ về âm thanh, vì thế nó khiến cho tai nghe được âm thanh”. NAN 41 Điều 41 Nan viết: “Chỉ riêng có Can là có đến 2 lá, nó được ứng với gì ?”. Thực vậy: “Can thuộc đông phương Mộc. Mộc thuộc mùa xuân, (đó là lúc) vạn vật bắtđầu sinh ra. Ý (của mùa xuân, của Can) không cần phải là người thân (mới thi ân). Nó(Can) cách Thái âm vẫn rất gần, rời Thái dương không xa, ví như có “lưỡng Tâm”. Chonên, nó có 2 lá nhằm ứng với lá của Mộc vậy”. NAN 42 Điều 42 Nan viết: “Trường Vị của con người dài hay ngắn, nhận được thủy cốc nhiềuhay ít ?”. Thực vậy: “Vị to 1 xích 5 thốn, đường kính 5 thốn, dài 2 xích 6 thốn, căng ngang đểchứa thủy cốc được 3 đấu 5 thăng. Bên trong thường phải giữ lại (thủy cốc); (gồm) cốc 2đấu, thủy 1 đấu 5 thăng. Tiểu trường to 2 thốn rưỡi, đường kính 8 phân 1/3, dài 3 trượng 2 xích, nhận được cốc2 đấu 4 thăng, thủy được 6 thăng 3 hợp 2/3. Hồi trường lớn 4 thốn, đường kính 1 thốn rưỡi, dài 2 trượng 1 xích, nhận được cốc 1đấu, thủy 7 thăng rưỡi. Quảng trường to 8 thốn, đường kính 2 thốn rưỡi, dài 2 xích 8 thốn, nhận được cốc 9thăng 3 hợp 1/8. Vì thế tính chung Trường và Vị dài 5 trượng 8 xích, 4 thốn, nhập chungthủy cốc 8 đấu 7 thăng 6 hợp 6/8. Đây là con số mà Trường Vị đo được độ dài ngắn vàsức chứa nhận về thủy cốc. Can cân nặng 4 cân 4 lượng, bên trái có 3 lá, bên phải có 4 lá, tất cả gồm 7 lá.Nó chủvề tàng hồn. Tâm cân nặng 12 lượng, bên trong có 7 lỗ lớn, 3 lỗ nhỏ (?), chứa đựng tinh trấp 3 hợp,chủ về tàng thần. Tỳ cân nặng 2 cân 3 lượng, hình dẹp rộng 3 thốn, dài 5 thốn, có khối mỡ “tán cao”nặng nửa cân, nó chủ về bọc huyết làm ấm ngũ tạng, chủ về tàng ý. Phế cân nặng 3 cân 3 lượng, 6 lá 2 lỗ nhĩ, gồm 8 lá, chủ về tàng phách. Thận có 2 quả, cân nặng 1 cân 1 lượng, chủ về tàng chí. Đởm nằm trong khoảng dưới là gan ngắn, cân nặng 3 lượng 3 thù, chứa đựng tinh trấp3 hợp. Vị cân nặng 2 cân 2 lượng, quanh co khúc khuỷu, co lại duỗi ra, dài 2 xích 6 thốn, to 1xích 5 thốn, đường kính 5 thốn, chứa đựng cốc 2 đấu, thủy 1 đấu 5 thăng. Tiểu trường cân nặng 2 cân 14 lượng, dài 3 trượng 2 xích, rộng 2 thốn r ưỡi, đườngkính 8 phân 1/3, cuộn khú ...

Tài liệu được xem nhiều: