Danh mục

Y học cổ truyền Việt Nam - Nan Kinh part 4

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 106.26 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Điều 58 Nan viết: “Thương hàn có mấy loại ? Mạch của nó có biến không ?”. Thực vậy: “Thương hàn có 5 loại, đó là có trúng phong, có thương hàn, có thấp ôn, có nhiệt bệnh, có ôn bệnh, mỗi loại có sự biểu hiện hiểm nguy của nó khác nhau. Mạch trúng phong thì Dương phù mà hoạt, Âm nhu mà nhược, Mạch thấp ôn thì Dương nhu mà nhược, Âm tiểu mà cấp. Mạch thương hàn thì Âm Dương đều thịnh mà khẩn sắc. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền Việt Nam - Nan Kinh part 4 Đại hà tiết là chứng mà lý cấp hậu trọng, nhiều lần đi đến cầu tiêu nhưng không thể đạitiện được, giữa dương vật bị đau. Đây là phép lớn để hiểu về các chứng tiết. NAN 58 Điều 58 Nan viết: “Thương hàn có mấy loại ? Mạch của nó có biến không ?”. Thực vậy: “Thương hàn có 5 loại, đó là có trúng phong, có thương hàn, có thấp ôn, cónhiệt bệnh, có ôn bệnh, mỗi loại có sự biểu hiện hiểm nguy của nó khác nhau. Mạch trúng phong thì Dương phù mà hoạt, Âm nhu mà nhược, Mạch thấp ôn thìDương nhu mà nhược, Âm tiểu mà cấp. Mạch thương hàn thì Âm Dương đều thịnh màkhẩn sắc. Mạch nhiệt bệnh thì Âm Dương đều phù, phù mà lại hoạt, trầm mà lại tán sắc.Mạch ôn bệnh thì vận hành ở các kinh mà không biết động ở kinh nào, đều phải dựa vàotình hình của kinh đó trong lúc chẩn để dựa vào đó mà trị”. “Bệnh thương hàn, có trường hợp cho ra mồ hôi thì khỏi mà cho xổ lại chết; có trườnghợp cho ra mồ hôi thì chết mà cho xổ lại khỏi, tại sao vậy ?”. Thực vậy: “Khi Dương hư Âm thịnh mà cho ra mồ hôi thì khỏi, cho xổ thì chết; khiDương thịnh Âm hư mà cho ra mồ hôi thì chết, cho xổ lại khỏi”. “Bệnh về hàn nhiệt, sự biểu hiện của nó như thế nào ?”. Thực vậy: “Bì phu hàn nhiệt làm cho bì phu không thể tiếp xúc được với chiếu nằm,lông tóc bị khô, mũi khô, không được cho ra mồ hôi; cơ nhục hàn nhiệt làm cho bì phu bịthống, môi lưỡi bị khô, không được cho ra mồ hôi; cốt hàn nhiệt bệnh làm cho ngườibệnh không được an tĩnh, mồ hôi ra không dứt, gốc răng khô và đau nhức”. NAN 59 Điều 59 Nan viết: “Bệnh Thuộc cuồng và điên phải phân biệt như thế nào ?”. Thực vậy: “Bệnh cuồng lúc bắt đầu làm cho bệnh nhân ít chịu những8, không đói tựcho mình là bậc hiền ở trên cao, tự phân biệt mình là người trí, tự cho mình là tôn qúy,ngông láo, cười ngây, ham ca nhạc, làm những việc liều lĩnh. Bệnh điên tật lúc bắt đầu làm cho bệnh nhân ý không vui, ngó thẳng, té xuống cứngnhư xác chết, tất cả 3 bộ mạch Âm Dương đều thịnh”. NAN 60 Điều 60 Nan viết: “bệnh ở đầu và Tâm có Quyết thống, có Chân thống, nghĩa là thếnào ?”. Thực vậy: “Mạch của Thủ tam Dương thọ phong hàn, núp lại, lưu lại không đi, gọi làQuyết đầu thống, nó nhập để liên hệ với não, gọi là Chân đầu thống. Khí của ngũ tạngcan thiệp vào nhau gọi là Quyết Tâm thống. Khi nào sự đau nhức nhiều chỉ ở Tâm, taychân lạnh, gọi là Chân Tâm thống. Khi mà bị chứng Chân Tâm thống thì buổi sáng phátbệnh, buổi chiều chết, buổi chiều phát, buổi sáng chết”. NAN 61 Điều 61 Nan viết: “Kinh nói: Vọng để biết gọi là thần, văn (nghe) để biết gọi là thánh,vấn (hỏi) để biết gọi là công, thiết mạch để biết gọi là xả. Nói thế nghĩa là thế nào?”. Thực vậy: “Khi nói “vọng để biết” ý nói nhờ vọng mà thấy được ngũ sắc, từ đó biếtđược bệnh. Khi nói “văn để biết” ý nói nhờ văn mà nghe được ngũ âm nhằm phân biệt được bệnh. Khi nói “vấn để biết” ý nói nhờ vấn mà chúng ta hỏi được người bệnh thích vị nàotrong ngũ vị, từ đó ta biết được bệnh khởi lên từ đâu ? Đang nằm ở đâu ? Khi nói “thiết mạch để biết” ý nói nhờ chẩn mạch Thốn khẩu mà biết được tình trạnghư thực nhằm biết được bệnh, belänh đó đang ở tạng phủ nào ? Kinh đã nói “nhờ ở ngoạimà biết gọi là thánh, nhờ ở nội mà biết gọi là thần” là như thế!”. NAN 62 Điều 62 Nan viết: “Các huyệt Tỉnh Vinh... của tạng chỉ có 5, ri êng ở phủ lại có đến 6,nghĩa là thế nào ?”. Thực vậy: “phủ thuộc Dương. Kinh Tam tiêu vận hành ở các kinh Dương, cho nên phảiđặt thêm 1 du huyệt gọi tên là Nguyên. Như vậy nếu phủ có đến 6 thì đó cũng chỉ vì nócùng một khí với Tam tiêu mà thôi”. NAN 63 Điều 63 Nan viết: “Các huyệt Vinh Hợp trong ngũ tạng lục phủ đều lấy Tỉnh l àm huyệtbắt đầu. (Như thế) nghĩa là gì ?”. Thực vậy: “Tỉnh là mùa xuân, phương đông, lúc vạn vật bắt đầu sinh ra. Các con sâukỷ bò ngoằn ngoèo, suyễn tức, sâu quyên bay lên, sâu nhu động đậy. Các vật phải sốngkhông vật nào không dựa vào mùa xuân để sinh. Cho nên tính theo tuế thì bắt đầu từ xuân, tính theo nguyệt (có bản viết là nhật) thì bắtđầu ở Giáp. Vì thế (cổ nhân) lấy huyệt Tỉnh làm huyệt bắt đầu”. NAN 64 Điều 64 Nan viết: “Thập biến lại nói: Âm Tỉnh Mộc, Dương Tỉnh Kim; Âm Vinh Hỏa;Dương Vinh Thủy; Âm Du Thổ, Dương Du Mộc; Âm Kinh Kim, Dương Kinh Hỏa; ÂmHợp Thủy, Dương Hợp Thổ. Âm Dương (giữa 2 đường kinh) đều không đồng nhau. Ý(của sự bất đồng đó) như thế nào ?”. Thực vậy: “Đây là vấn đề thuộc Cương và Nhu. Âm Tỉnh thuộc Ất Mộc. Dương Tỉnh thuộc Canh Kim. Huyệt Tỉnh của đường kinh Dương thuộc Canh và Canh là “cương” của Ất. Huyệt Tỉnh của đường kinh Âm thuộc Ất vì Ất là “nhu” của Canh. Ất thuộc Mộc, cho nên gọi huyệt Tỉnh của đường kinh Âm thuộc Mộc. Canh thuộcKim, cho nên gọi h ...

Tài liệu được xem nhiều: