Bài giảng chuyên đề Tâm thần học: Đại cương phương pháp chẩn đoán điện não đồ - PGS.TS Phan Việt Nga
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 321.36 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài giảng chuyên đề Tâm thần học: Đại cương phương pháp chẩn đoán điện não đồ - PGS.TS Phan Việt Nga sẽ giới thiệu tới các bạn một số vấn đề cơ bản về các nguyên tắc cơ bản của phương pháp ghi điện não; các hoạt động điện não cơ bản của người trưởng thành; các hoạt động điện não bệnh lý; điện não đồ trong một số bệnh lý thần kinh. Cùng tìm hiểu để nắm bắt nội dung thông tin tài liệu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng chuyên đề Tâm thần học: Đại cương phương pháp chẩn đoán điện não đồ - PGS.TS Phan Việt Nga BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ: THẦN KINH HỌC: ĐẠI CƢƠNG PHƢƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN ĐIỆN NÃO ĐỒ Biên soạn: PGS.TS.Phan Việt Nga 1 MỤC TIÊU CHUYÊN ĐỀ: Sau khi học xong chuyên đề “Thần kinh học: Đại cương phương pháp chẩn đoán điện não đồ”, người học nắm được những kiến thức như: - Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp ghi điện não. - Các hoạt động điện não cơ bản của người trưởng thành. - Các hoạt động điện não bệnh lý. - Điện não đồ trong một số bệnh lý thần kinh. 2 NỘI DUNG I. ĐẠI CƢƠNG Điện não đồ và những phương pháp điện sinh lý liên quan là một kết quả trực tiếp của nghiên cứu điện sinh lý được bắt đầu ở châu Âu vào giữa thế kỷ XIX. Richard Caton (1842 - 1926), một bác sĩ, giảng viên sinh lý học ở Trường Y Liveprool, đã chỉ ra đáp ứng vận động khu trú khi kích thích điện của nhiều vùng vỏ não khác nhau ở chó. Nhưng lịch sử của phương pháp ghi điện não chỉ thực sự bắt đầu năm 1924 bởi Hans Berger (1873 - 1941), Chủ nhiệm khoa Tâm thần ở Đại học Tổng hợp của Jena (Đức), đã ghi được hoạt động điện não tự phát ở người từ các điện cực đặt ở da đầu và gọi là điện não đồ. Điện não đồ là sự ghi lại dòng điện sinh học của não bởi dụng cụ điện cực đặt ở da đầu, ở bề mặt của vỏ não hoặc vị trí trong chất não. Hoạt động của hệ thần kinh trung ương kéo theo các quá trình điện sinh học. Trong tình trạng hưng phấn ở tế bào thần kinh, các ion được phân bố lại và xuất hiện sự chênh lệch điện thế giữa các khu vực. Sự chênh lệch điện thế giữa các mô não là rất nhỏ, vì vậy để ghi được cần phải có thiết bị rất nhạy là máy ghi điện não. Sự dao động điện thế được thấy ở hình dạng sóng, sóng có tương quan với những điều kiện thần kinh khác nhau và được sử dụng như tiêu chuẩn chẩn đoán. Điện não đồ chuẩn: Điện não đồ chuẩn kéo dài trong 20 phút, có 3 - 4 cách kết nối điện cực khác nhau được thực hiện, cách phản ứng của các hoạt động điện não được đánh giá bằng các cách thử đơn giản như nhắm và mở mắt. Hai dạng hoạt hoá được hệ thống hoá là tăng nhịp thở và kích thích ánh sáng ngắt quãng. 3 II. NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA GHI ĐIỆN NÃO 1. Máy ghi điện não Các máy ghi điện não được sản xuất dựa trên nguyên tắc phối hợp của nhiều chuyển đạo. Mỗi máy điện não bao gồm: - Một khuếch đại biên độ cho phép khuếch đại một cách trung thực các điện thế ở mức độ từng microvolt (mV). - Một bộ phận ghi cơ học hoặc số hoá cho phép tiếp nhận những tín hiệu và được ghi lại trên giấy hoặc trên màn hình vi tính. Tốc độ chạy của giấy từ 15mm/giấy cho đến 3mm/giây tuỳ theo từng tác giả. Tùy theo số lượng của các thông tin cần phân tích mà các bản ghi có thể được đặt từ 8, 12, 16 đến 20 chuyển đạo. Hiện nay, các máy ghi điện não số hoá dần dần thay thế hệ thống ghi trên giấy. 2. Vị trí đặt điện cực Các điện cực được đặt theo quy định quốc tế gọi là hệ thống 10 - 20 theo một tỷ lệ nhất định trên toàn bộ vùng da đầu. Theo quy định, tên của các điện cực là tên của vùng da đầu dưới chân điện cực. Ví dụ: Fp (fronto polaire: cực trán), F (frontal: trán), C (central: trung tâm)... Các điện cực ở đường giữa mang số chẵn nằm bên phải của đầu và các điện cực nằm bên trái mang số lẻ. Các điện cực cần đặt đối xứng, giống hệt nhau ở hai bên. Da đầu bệnh nhân phải sạch và tại các vị trí đặt điện cực phải bôi chất dẫn điện (hồ dẫn điện, nước muối sinh lý) để làm giảm tối đa điện trở da đầu. 3. Các chuyển đạo đạo trình Chuyển đạo là sự kết hợp của nhiều cặp điện cực với nhau. Các loại chuyển đạo này cho phép thăm dò toàn bề mặt của da đầu theo các trục khác nhau. Có hai chuyển đạo hay được dùng: 4 - Chuyển đạo đơn cực được sử dụng để ghi sự khác biệt về điện thế giữa một điện cực (điện cực hoạt động) và toàn bộ các điện cực khác (điện cực đối chiếu trung tính). Các chuyển đạo đơn cực khuếch đại hữu hiệu nhất các hoạt động điện não. - Chuyển đạo lưỡng cực là các chuyển đạo được sử dụng để ghi sự khác biệt về điện thế giữa hai điện cực hoạt động đặt trong một chuỗi các điện cực tiếp nối nhau theo chiều dọc (đạo trình dọc) hoặc theo chiều ngang (đạo trình ngang). Ưu thế của các chuyển đạo loại này là khi một điện thế xuất hiện ở dưới một điện cực chung cho hai khuếch đại kế tiếp nhau sẽ tạo ra một hình ảnh đối pha. Điều đó nói lên nguồn gốc phát sinh của điện thế này nằm ngay dưới điện cực chung đó. Đạo trình là sơ đồ mắc kết nối các điện cực với nhau cho phù hợp với mục đích thăm dò các hoạt động điện các vùng của não. Hai đạo trình hay được sử dụng trong ghi điện não đồ thường quy là đạo trình dọc và đạo trình ngang. Khi đọc trong ghi điện não đồ, trên cùng một bệnh nhân, cần luôn xem bản ghi ở c ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng chuyên đề Tâm thần học: Đại cương phương pháp chẩn đoán điện não đồ - PGS.TS Phan Việt Nga BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ: THẦN KINH HỌC: ĐẠI CƢƠNG PHƢƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN ĐIỆN NÃO ĐỒ Biên soạn: PGS.TS.Phan Việt Nga 1 MỤC TIÊU CHUYÊN ĐỀ: Sau khi học xong chuyên đề “Thần kinh học: Đại cương phương pháp chẩn đoán điện não đồ”, người học nắm được những kiến thức như: - Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp ghi điện não. - Các hoạt động điện não cơ bản của người trưởng thành. - Các hoạt động điện não bệnh lý. - Điện não đồ trong một số bệnh lý thần kinh. 2 NỘI DUNG I. ĐẠI CƢƠNG Điện não đồ và những phương pháp điện sinh lý liên quan là một kết quả trực tiếp của nghiên cứu điện sinh lý được bắt đầu ở châu Âu vào giữa thế kỷ XIX. Richard Caton (1842 - 1926), một bác sĩ, giảng viên sinh lý học ở Trường Y Liveprool, đã chỉ ra đáp ứng vận động khu trú khi kích thích điện của nhiều vùng vỏ não khác nhau ở chó. Nhưng lịch sử của phương pháp ghi điện não chỉ thực sự bắt đầu năm 1924 bởi Hans Berger (1873 - 1941), Chủ nhiệm khoa Tâm thần ở Đại học Tổng hợp của Jena (Đức), đã ghi được hoạt động điện não tự phát ở người từ các điện cực đặt ở da đầu và gọi là điện não đồ. Điện não đồ là sự ghi lại dòng điện sinh học của não bởi dụng cụ điện cực đặt ở da đầu, ở bề mặt của vỏ não hoặc vị trí trong chất não. Hoạt động của hệ thần kinh trung ương kéo theo các quá trình điện sinh học. Trong tình trạng hưng phấn ở tế bào thần kinh, các ion được phân bố lại và xuất hiện sự chênh lệch điện thế giữa các khu vực. Sự chênh lệch điện thế giữa các mô não là rất nhỏ, vì vậy để ghi được cần phải có thiết bị rất nhạy là máy ghi điện não. Sự dao động điện thế được thấy ở hình dạng sóng, sóng có tương quan với những điều kiện thần kinh khác nhau và được sử dụng như tiêu chuẩn chẩn đoán. Điện não đồ chuẩn: Điện não đồ chuẩn kéo dài trong 20 phút, có 3 - 4 cách kết nối điện cực khác nhau được thực hiện, cách phản ứng của các hoạt động điện não được đánh giá bằng các cách thử đơn giản như nhắm và mở mắt. Hai dạng hoạt hoá được hệ thống hoá là tăng nhịp thở và kích thích ánh sáng ngắt quãng. 3 II. NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA GHI ĐIỆN NÃO 1. Máy ghi điện não Các máy ghi điện não được sản xuất dựa trên nguyên tắc phối hợp của nhiều chuyển đạo. Mỗi máy điện não bao gồm: - Một khuếch đại biên độ cho phép khuếch đại một cách trung thực các điện thế ở mức độ từng microvolt (mV). - Một bộ phận ghi cơ học hoặc số hoá cho phép tiếp nhận những tín hiệu và được ghi lại trên giấy hoặc trên màn hình vi tính. Tốc độ chạy của giấy từ 15mm/giấy cho đến 3mm/giây tuỳ theo từng tác giả. Tùy theo số lượng của các thông tin cần phân tích mà các bản ghi có thể được đặt từ 8, 12, 16 đến 20 chuyển đạo. Hiện nay, các máy ghi điện não số hoá dần dần thay thế hệ thống ghi trên giấy. 2. Vị trí đặt điện cực Các điện cực được đặt theo quy định quốc tế gọi là hệ thống 10 - 20 theo một tỷ lệ nhất định trên toàn bộ vùng da đầu. Theo quy định, tên của các điện cực là tên của vùng da đầu dưới chân điện cực. Ví dụ: Fp (fronto polaire: cực trán), F (frontal: trán), C (central: trung tâm)... Các điện cực ở đường giữa mang số chẵn nằm bên phải của đầu và các điện cực nằm bên trái mang số lẻ. Các điện cực cần đặt đối xứng, giống hệt nhau ở hai bên. Da đầu bệnh nhân phải sạch và tại các vị trí đặt điện cực phải bôi chất dẫn điện (hồ dẫn điện, nước muối sinh lý) để làm giảm tối đa điện trở da đầu. 3. Các chuyển đạo đạo trình Chuyển đạo là sự kết hợp của nhiều cặp điện cực với nhau. Các loại chuyển đạo này cho phép thăm dò toàn bề mặt của da đầu theo các trục khác nhau. Có hai chuyển đạo hay được dùng: 4 - Chuyển đạo đơn cực được sử dụng để ghi sự khác biệt về điện thế giữa một điện cực (điện cực hoạt động) và toàn bộ các điện cực khác (điện cực đối chiếu trung tính). Các chuyển đạo đơn cực khuếch đại hữu hiệu nhất các hoạt động điện não. - Chuyển đạo lưỡng cực là các chuyển đạo được sử dụng để ghi sự khác biệt về điện thế giữa hai điện cực hoạt động đặt trong một chuỗi các điện cực tiếp nối nhau theo chiều dọc (đạo trình dọc) hoặc theo chiều ngang (đạo trình ngang). Ưu thế của các chuyển đạo loại này là khi một điện thế xuất hiện ở dưới một điện cực chung cho hai khuếch đại kế tiếp nhau sẽ tạo ra một hình ảnh đối pha. Điều đó nói lên nguồn gốc phát sinh của điện thế này nằm ngay dưới điện cực chung đó. Đạo trình là sơ đồ mắc kết nối các điện cực với nhau cho phù hợp với mục đích thăm dò các hoạt động điện các vùng của não. Hai đạo trình hay được sử dụng trong ghi điện não đồ thường quy là đạo trình dọc và đạo trình ngang. Khi đọc trong ghi điện não đồ, trên cùng một bệnh nhân, cần luôn xem bản ghi ở c ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Bài giảng chuyên đề Tâm thần học Điện não đồ Chẩn đoán điện não đồ Đại cương điện não đồ Phương pháp ghi điện não Hoạt động điện nãoGợi ý tài liệu liên quan:
-
11 trang 37 0 0
-
Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, các yếu tố liên quan động kinh kháng thuốc trẻ em
5 trang 32 0 0 -
Bài giảng Tâm thần học: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực
14 trang 22 1 0 -
Ứng dụng trong thực hành lâm sàng - Điện não đồ: Phần 1
123 trang 20 0 0 -
Bài giảng Tâm thần học: Rối loạn lo âu
9 trang 19 0 0 -
11 trang 17 0 0
-
Bài giảng Tâm thần học: Trầm cảm
17 trang 16 0 0 -
Bài giảng chuyên đề: Tâm thần học - Rối loạn lo âu
9 trang 16 0 0 -
Bài giảng chuyên đề: Tâm thần học
15 trang 15 0 0 -
Bài giảng chuyên đề Tâm thần học: Hội chứng liệt nửa người
11 trang 15 0 0