Bài giảng môn Xã hội học: Phần 2 - ĐH Đà Nẵng
Số trang: 120
Loại file: pdf
Dung lượng: 525.07 KB
Lượt xem: 23
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Xã hội học là một bộ môn khoa học độc lập trong hệ thống cáckhoa học xã hội. Xã hội học đã được nghiên cứu, giảng dạy trong nhiều trường đại học trên thế giới từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đây là môn học không thể thiếu của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Bài giảng môn Xã hội học được biên soạn nhằm phục vụ mục đích học tập, nghiên cứu của sinh viên các khối ngành kinh tế thuộc các hệ đào tạo khác nhau. Phần 2 của tài liệu gồm nội dung 5 chương sau.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng môn Xã hội học: Phần 2 - ĐH Đà Nẵng Chương V XÃ HỘI HOÁ I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI HOÁ 1. Bản chất con người Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau.Xã hội học quan niệm con ng ười là đơn vị cơ bản cấu thành xã hội, làđơn vị nhỏ nhất của hệ thống x ã hội, là sinh vật có tư duy, sống theo tổchức xã hội. Trước hết, con người là sinh vật cao cấp nhất hành tinh, có bảnnăng sinh tồn và duy trì nòi giống. Gọi là bản năng vì nó hình thành mộtcách tự nhiên hợp quy luật trong quá trình tiến hoá lâu dài của nhânloại, nằm trong vô thức của con ng ười. Bản năng sinh tồn dễ dẫn đếntính tham lam, ích kỷ... Bản năng duy trì nòi giống kích thích cảm giácvà nhu cầu gắn bó với người khác giới. Học thuyết phân tâm học của S. Freud (n hà tâm lý học - y họcngười Áo, 1856-1939) đã quá nhấn mạnh đến bản năng sinh tồn của conngười. Luận điểm cơ bản của S. Freud tách con ng ười thành ba khối,gồm có: “Cái ấy” (cái vô thức) , “cái tôi” v à “cái siêu tôi”. Trong đó: - Cái vô thức bao gồm các bản năng vô thức như ăn uống, tìnhdục, tự vệ. Trong đó, bản năng t ình dục giữ vai trò trọng tâm, quyếtđịnh toàn bộ đời sống tâm lý và hành vi của con người. - Cái tôi - con người thường ngày - con người ý thức, tồn tại theonguyên tắc hiện thực. Cái tôi ý thức là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoàicủa cái lõi , hạt nhân bên trong là “cái ấy”. - Cái siêu tôi là cái siêu phàm, “cái tôi lý t ưởng” không bao giờvươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép. Như vậy, phân tâm học đã đề cao một cách thái quá cái bản năngvô thức, dẫn đến phủ nhận ý thức, phủ nhận bản chất x ã hội lịch sử củacon người. Hơn thế nữa, con người là một thực thể xã hội và văn hoá. Conngười được xã hội truyền lại nền văn hoá x ã hội và đã biến mình thànhcon người xã hội. E. Durkheim cho rằng xã hội tạo nên bản chất conngười khi ông nói; “Xã hội là nguyên lý giải thích cá thể”. Con người là86một tồn tại “giao lưu” chứ không phải là một tồn tại xã hội hành động.Quá trình xã hội hoá cá thể là quá trình giao lưu ngôn ngữ, giao lưu tinhthần giữa người này với người khác để lĩnh hội các “biểu t ượng xã hội”,các tập tục, lề thói...tạo ra hành vi xã hội. Karl Marx lại nói: “Bản chấtcủa con người không phải là cái gì trừu tượng, tồn tại với từng cá nhânriêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con ng ười là sự tổnghoà các mối quan hệ xã hội”. Là một sinh vật, con người mang bản năng sinh tồn v à chịu sự chiphối của quy luật cạnh tranh sinh tồn. L à con người xã hội, con ngườimang bản thể xã hội và chịu sự chi phối của quy luật cộng đồng. Dovậy, con người luôn sống trong sự pha trộn của bản năng sinh tồn vớibản thể xã hội để phát ra hành vi. Trong cuộc sống thường ngày, mỗi người luôn phải đối mặt vớihai dạng hành vi nằm trong bản thể của chính m ình là hành vi bản năngvà hành vi ý thức. Trong đó: - Hành vi bản năng (hành vi vô thức) là hành vi sơ đẳng thấp nhấtthoả mãn nhu cầu sinh học. Đây là hành vi bẩm sinh do bản năng sinhtồn của con người chi phối. - Hành vi ý thức (hành vi trí tuệ) là hành vi có suy nghĩ, có tínhtoán trước theo mục đích đã được đề ra, là hành vi do ý thức của conngười chi phối. Một vấn đề nữa thường được người ta bàn đến là con người tâmlinh, một thực thể vô cùng phức tạp, đa dạng, vô tận. Trong tâm linhcon người luôn có sự pha trộn của vô thức, tiềm thức và ý thức. trongđó, lớp sâu nhất là vô thức, nó có nguồn gốc từ rất sâu, rất xa x ưa đếnvới con người hiện tại bằng di truyền, hoặc có thể do (có một số ý kiếnchưa được công nhận) kiếp trước (kiếp luân hồi) tái hiện. Tâm linh con người phức tạp như vậy, nên con người thường cầnđến một chỗ dựa tinh thần nh ư tôn giáo, sự say mê, một chủ nghĩa, hayđơn giản, tìm ở người khác sự đồng cảm. Ý thức là cái hiện hữu thường trực trong tâm linh con ng ười. Nódẫn dắt, chi phối trong đời sống con ng ười. Tuy vậy, ý thức là mộtphạm trù vô cùng phức tạp. Ý thức không hoàn toàn tách rời vô thức vàtiềm thức. Con người luôn tự vấn mình, đánh giá mình và những ngườixung quanh để quyết định hành vi và luôn bị giằng xé bởi các mâu 87thuẫn, bởi sự đấu tranh nội tâm và ngoại cảnh để định hướng về sự làmngười. Từ ý thức, con người luôn thấy mình là tổng hoà của bản năng, lýtrí và tâm linh. Dù tự giác hay không, có ý chí quyết thắng trở ngại đểtự khẳng định mình hay không, thì ý thức vẫn phải luôn là động lựcsống của mỗi người. Trong xã hội, con người chịu trách nhiệm đối với h ành vi xã hộicủa chính mình. Do đó, gia đình và xã hội phải có những định hướngđúng để làm cơ sở cho mỗi cá nhân lựa chọn h ành vi của mình. Nếukhông có những định hướng đúng đó, mỗi cá nhân dễ bị lầm lạc trongđường đời, trở thành tốt hơn thì khó, nhưng trở thành xấu hơn thì ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng môn Xã hội học: Phần 2 - ĐH Đà Nẵng Chương V XÃ HỘI HOÁ I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI HOÁ 1. Bản chất con người Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau.Xã hội học quan niệm con ng ười là đơn vị cơ bản cấu thành xã hội, làđơn vị nhỏ nhất của hệ thống x ã hội, là sinh vật có tư duy, sống theo tổchức xã hội. Trước hết, con người là sinh vật cao cấp nhất hành tinh, có bảnnăng sinh tồn và duy trì nòi giống. Gọi là bản năng vì nó hình thành mộtcách tự nhiên hợp quy luật trong quá trình tiến hoá lâu dài của nhânloại, nằm trong vô thức của con ng ười. Bản năng sinh tồn dễ dẫn đếntính tham lam, ích kỷ... Bản năng duy trì nòi giống kích thích cảm giácvà nhu cầu gắn bó với người khác giới. Học thuyết phân tâm học của S. Freud (n hà tâm lý học - y họcngười Áo, 1856-1939) đã quá nhấn mạnh đến bản năng sinh tồn của conngười. Luận điểm cơ bản của S. Freud tách con ng ười thành ba khối,gồm có: “Cái ấy” (cái vô thức) , “cái tôi” v à “cái siêu tôi”. Trong đó: - Cái vô thức bao gồm các bản năng vô thức như ăn uống, tìnhdục, tự vệ. Trong đó, bản năng t ình dục giữ vai trò trọng tâm, quyếtđịnh toàn bộ đời sống tâm lý và hành vi của con người. - Cái tôi - con người thường ngày - con người ý thức, tồn tại theonguyên tắc hiện thực. Cái tôi ý thức là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoàicủa cái lõi , hạt nhân bên trong là “cái ấy”. - Cái siêu tôi là cái siêu phàm, “cái tôi lý t ưởng” không bao giờvươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép. Như vậy, phân tâm học đã đề cao một cách thái quá cái bản năngvô thức, dẫn đến phủ nhận ý thức, phủ nhận bản chất x ã hội lịch sử củacon người. Hơn thế nữa, con người là một thực thể xã hội và văn hoá. Conngười được xã hội truyền lại nền văn hoá x ã hội và đã biến mình thànhcon người xã hội. E. Durkheim cho rằng xã hội tạo nên bản chất conngười khi ông nói; “Xã hội là nguyên lý giải thích cá thể”. Con người là86một tồn tại “giao lưu” chứ không phải là một tồn tại xã hội hành động.Quá trình xã hội hoá cá thể là quá trình giao lưu ngôn ngữ, giao lưu tinhthần giữa người này với người khác để lĩnh hội các “biểu t ượng xã hội”,các tập tục, lề thói...tạo ra hành vi xã hội. Karl Marx lại nói: “Bản chấtcủa con người không phải là cái gì trừu tượng, tồn tại với từng cá nhânriêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con ng ười là sự tổnghoà các mối quan hệ xã hội”. Là một sinh vật, con người mang bản năng sinh tồn v à chịu sự chiphối của quy luật cạnh tranh sinh tồn. L à con người xã hội, con ngườimang bản thể xã hội và chịu sự chi phối của quy luật cộng đồng. Dovậy, con người luôn sống trong sự pha trộn của bản năng sinh tồn vớibản thể xã hội để phát ra hành vi. Trong cuộc sống thường ngày, mỗi người luôn phải đối mặt vớihai dạng hành vi nằm trong bản thể của chính m ình là hành vi bản năngvà hành vi ý thức. Trong đó: - Hành vi bản năng (hành vi vô thức) là hành vi sơ đẳng thấp nhấtthoả mãn nhu cầu sinh học. Đây là hành vi bẩm sinh do bản năng sinhtồn của con người chi phối. - Hành vi ý thức (hành vi trí tuệ) là hành vi có suy nghĩ, có tínhtoán trước theo mục đích đã được đề ra, là hành vi do ý thức của conngười chi phối. Một vấn đề nữa thường được người ta bàn đến là con người tâmlinh, một thực thể vô cùng phức tạp, đa dạng, vô tận. Trong tâm linhcon người luôn có sự pha trộn của vô thức, tiềm thức và ý thức. trongđó, lớp sâu nhất là vô thức, nó có nguồn gốc từ rất sâu, rất xa x ưa đếnvới con người hiện tại bằng di truyền, hoặc có thể do (có một số ý kiếnchưa được công nhận) kiếp trước (kiếp luân hồi) tái hiện. Tâm linh con người phức tạp như vậy, nên con người thường cầnđến một chỗ dựa tinh thần nh ư tôn giáo, sự say mê, một chủ nghĩa, hayđơn giản, tìm ở người khác sự đồng cảm. Ý thức là cái hiện hữu thường trực trong tâm linh con ng ười. Nódẫn dắt, chi phối trong đời sống con ng ười. Tuy vậy, ý thức là mộtphạm trù vô cùng phức tạp. Ý thức không hoàn toàn tách rời vô thức vàtiềm thức. Con người luôn tự vấn mình, đánh giá mình và những ngườixung quanh để quyết định hành vi và luôn bị giằng xé bởi các mâu 87thuẫn, bởi sự đấu tranh nội tâm và ngoại cảnh để định hướng về sự làmngười. Từ ý thức, con người luôn thấy mình là tổng hoà của bản năng, lýtrí và tâm linh. Dù tự giác hay không, có ý chí quyết thắng trở ngại đểtự khẳng định mình hay không, thì ý thức vẫn phải luôn là động lựcsống của mỗi người. Trong xã hội, con người chịu trách nhiệm đối với h ành vi xã hộicủa chính mình. Do đó, gia đình và xã hội phải có những định hướngđúng để làm cơ sở cho mỗi cá nhân lựa chọn h ành vi của mình. Nếukhông có những định hướng đúng đó, mỗi cá nhân dễ bị lầm lạc trongđường đời, trở thành tốt hơn thì khó, nhưng trở thành xấu hơn thì ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Xã hội học Bài giảng Xã hội học Lý thuyết xã hội học Nghiên cứu xã hội học Xã hội học Phần 2 Phương pháp nghiên cứu xã hội họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Phương pháp nghiên cứu xã hội học: Phần 1 - Phạm Văn Quyết
123 trang 459 11 0 -
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 261 0 0 -
67 trang 226 0 0
-
Thiết kế không gian: Tiếp cận dưới góc độ lý thuyết xã hội học
12 trang 212 0 0 -
Tiểu luận 'Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội'
20 trang 178 0 0 -
Giới thiệu lý thuyết xã hội học Curriculum - Nguyễn Khánh Trung
0 trang 168 0 0 -
Giáo trình Nhập môn xã hội học: Phần 1 - TS. Trần Thị Kim Xuyến
137 trang 150 1 0 -
Tiểu luận: Quy chế dân chủ làng xã, quy chế dân chủ cơ sở
35 trang 133 0 0 -
34 trang 114 0 0
-
TIỂU LUẬN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC ĐỨC CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX
40 trang 114 0 0