Danh mục

Báo cáo nghiên cứu khoa học: PHÂN TÍCH MỘT SỐ YẾU TỐ GÂY CƯỜI TRONG CÁC TRUYỆN HÀI NGẮN TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT THEO QUAN ĐIỂM NGỮ DỤNG HỌC

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 272.05 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết nghiên cứu về các cơ chế gây cười trong truyện hài ngắn tiếng Anh và tiếng Việt dựa theo lý thuyết hành động lời nói gián tiếp của Austin và tính hàm ngôn trong ngôn ngữ. Mục đích của bài viết này là giúp cho người học tiếng Anh khi đọc truyện cười bằng tiếng Anh dễ dàng hiểu được nội dung câu chuyện và do đó khích lệ được niềm say mê học tiếng Anh cho mọi người.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "PHÂN TÍCH MỘT SỐ YẾU TỐ GÂY CƯỜI TRONG CÁC TRUYỆN HÀI NGẮN TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT THEO QUAN ĐIỂM NGỮ DỤNG HỌC" PHÂN TÍCH MỘT SỐ YẾU TỐ GÂY CƯỜI TRONG CÁC TRUYỆN HÀI NGẮN TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT THEO QUAN ĐIỂM NGỮ DỤNG HỌC A GRAGMATIC STUDY ON SOME FACTORS CAUSING LAUGHTER IN ENGLISH AND VIETNAMESE FUNNY STORIES HUỲNH THỊ HOÀI Trường Đại học Ngoại ngữ Đà Nẵng TÓM TẮT Bài viết nghiên cứu về các cơ chế gây cười trong truyện hài ngắn tiếng Anh và tiếng Việt dựa theo lý thuyết hành động lời nói gián tiếp của Austin và tính hàm ngôn trong ngôn ngữ. Mục đích của bài viết này là giúp cho người học tiếng Anh khi đọc truyện cười bằng tiếng Anh dễ dàng hiểu được nội dung câu chuyện và do đó khích lệ được niềm say mê học tiếng Anh cho mọi người. ABSTRACT This article studies humor mechanisms in English and Vietnamese short funny stories based on Austin’s indirect speech theory and implicature. Its aim is to make it easier for learners of English to read English funny stories, and then to promote their love of English. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Truyện hài và đặc biệt là truyện hài ngắn giúp thư giãn trong thời gian ngắn nhất với hiệu quả cao nhất. Cùng với tác dụng giảm căng thẳng, truyện hài ngắn tiếng Anh còn khích lệ lòng yêu thích tiếng Anh đồng thời nâng cao được kỹ năng đọc hiểu văn bản bằng tiếng Anh cho người đọc. Việc phân tích các yếu tố gây cười trong truyện theo quan điểm ngữ dụng học có so sánh với truyện cười tiếng Việt sẽ giúp người đọc không những hiểu được tính hài hước của câu chuyện mà còn giúp họ hiểu một cách thấu đáo chiều sâu của ngôn ngữ Anh, một số phong tục và tập quán của người Anh. 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2.1. Phương pháp nghiên cứu Bài báo này được thực hiện dựa theo phương pháp mô tả và phân tích đối chiếu. Tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ đích và tiếng Việt có tác dụng làm rõ thêm sự tương đồng và khác biệt trong cơ chế gây cười giữa hai ngôn ngữ nhằm làm cho bài báo dễ hiểu hơn. 2.2. Kết quả nghiên cứu 2.2.1. Cơ chế gây cười 152 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(25).2008 2.2.1.1. Cơ chế gây cười dựa theo lý thuyết hành động lời nói (speech act) của Austin. Theo Austin hành động lời nói gồm 3 loại lớn: - Hành vi tạo lời (Locutionary act) - Hành vi mượn lời (Perlocutionary act) - Hành vi tại lời (Illocutionary act) Trong bài báo này, chúng tôi nghiên cứu về những vi phạm khi thực hiện hoặc khi tiếp nhận hành vi tại lời – nghĩa là có thể từ phía người nói hoặc người nghe khi tham gia hội thoại – và do đó tiếng cười bật ra. Theo Austin “…Trong giao tiếp, chúng ta có những hành vi như hỏi, trả lời, yêu cầu, đề nghị, khẳng định, cam kết, khuyên bảo…Muốn thể hiện chúng ngay trong lời nói thì cần nói một điều gì đó. Cái này được gọi là hành vi tại lời (illocutionary act)” [2, tr.17]. Hành vi tại lời được chia làm 2 loại – hành vi tại lời trực tiếp và hành vi tại lời gián tiếp. George Yule cho rằng “Chừng nào có mối liên hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng, thì ta có một hành động lời nói trực tiếp (direct speech act). Chừng nào có một mối liên hệ gián tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng thì ta có một hành động lời nói gián tiếp (indirect speech act)” [4, tr. 111]. Ví dụ 1: + Khẳng định: John met the Bishop. John đã gặp đức Giám mục + Hỏi: Did John meet the Bishop? John đã gặp đức giám mục phải không? + Ra lệnh: Go to meet the Bishop, John! John, hãy đi gặp đức giám mục đi! Tuy nhiên trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, người nói sử dụng hành vi ngôn ngữ này nhưng lại nhằm đạt hiêu lực tại lời ở một hành vi ngôn ngữ khác. Ví dụ 2: + Hỏi: Do you have to stand in front of the TV? Anh phải đứng ngay trước TV à? + Khẳng định: You’re standing in front of the TV. Anh đang đứng trước TV đấy. Với hai hành vi ngôn ngữ khác nhau – hỏi và khẳng định – rõ ràng người nói muốn đạt cùng một hành vi tại lời – ra lệnh hoặc yêu cầu “Move out of the way!” (Tránh ra!) 153 Các tác giả truyện cười đã khai thác một cách có hệ thống và triệt để bản chất này của hành vi ngôn ngữ gián tiếp, tạo ra những tiếng cười sảng khoái. Hiệu quả gây cười xuất hiện khi phát ngôn được hiểu theo một cách khác, thiếu thiện chí và không hợp tác. Ví dụ 3: Our son was constantly wandering in and out of the house, leaving the front or back door wide open. Once and for all, will you please close that! my exasperated wife pleaded one day. Were you born in a barn? No, I was born in a hospital, he replied, smirking. With automatic doors. Con trai của chúng tôi chẳng bao giờ chịu đóng cửa trước lẫn cửa sau khi ra vào nhà. Một hôm vợ tôi tức giận bảo nó: “Đủ rồi đấy, con đóng cửa lại chứ? Con sinh ra ở chuông ngựa à?”. “Đâu có. Con sinh ra ở bệnh viện.” nó trả lời, cười điệu đàng “nhưng nó có cửa tự động mẹ ạ”. [8] Trong ví dụ trên, xét trên bề mặt câu chữ, phát ngôn của bà mẹ là câu hỏi: “Were you born in a barn?” (Con sinh ra ở chuồng ngựa à?). Thực tế bà muốn đạt được mục đích giao tiếp là một mệnh lệnh – “Close the door when you get in or out of the house” (Hãy đóng cửa khi con ra vào nhà chứ?). Rõ ràng đứa bé hiểu được hàm ý của mẹ. Bằng câu trả lời “I was born in a hospital with automatic doors” (Con s ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: