Bệnh viêm khớp dạng thấp và cách điều trị
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 139.93 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là một bệnh phổ biến nhất trong số các bệnh về khớp. Là một bệnh mang tính chất xã hội vì sự thường có, vì sự diễn biến kéo dài mặc dù được điều trị và còn bởi vì hậu quả cuối cùng sẽ dẫn đến sự tàn phế của người bệnh. Bệnh VKDT gặp ở mọi nơi trên thế giới, tỷ lệ mắc bệnh chung theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới vào khoảng từ 0,5 - 3% dân số (ở người lớn). Tại nước ta, bệnh VKDT chiếm tỷ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh viêm khớp dạng thấp và cách điều trị Bệnh viêm khớp dạng thấp và cách điều trị Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là một bệnh phổ biến nhất trong số các bệnh về khớp. Là một bệnh mang tính chất xã hội vì sự thường có, vì sự diễn biến kéo dài mặc dù được điều trị và còn bởi vì hậu quả cuối cùng sẽ dẫn đến sự tàn phế của người bệnh. Bệnh VKDT gặp ở mọi nơi trên thế giới, tỷ lệ mắc bệnh chung theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới vào khoảng từ 0,5 - 3% dân số (ở người lớn). Tại nước ta, bệnh VKDT chiếm tỷ lệ 0,5% trong nhân dân và 20% trong số các bệnh nhân mắc bệnh về khớp điều trị ở bệnh viện. Có thể nói VKDT là bệnh của phụ nữ tuổi trung niên, vì 70-80% bệnh nhân là nữ và 60-70% có tuổi trên 30. Bệnh có tính chất gia đình trong một số trường hợp. Bệnh có diễn biến kéo dài nhiều năm, phần lớn có tiến triển từ từ tăng dần, nhưng có tới 1/4 trường hợp có tiến triển từng đợt, có những giai đoạn lui bệnh rõ rệt. Rất hiếm thấy trường hợp lui dần rồi khỏi hẳn. VKDT là một loại bệnh hệ thống mà nguyên nhân vẫn còn đang là vấn đề được bàn luận. Người ta nhận thấy có sự phối hợp giữa những người bị VKDT với yếu tố HLA - DR4 (một loại kháng nguyên phù hợp tổ chức); ngoài ra, yếu tố di truyền hay môi trường cũng có ảnh hưởng nhiều tới bệnh sinh và tiến triển của bệnh. Biểu hiện lâm sàng của bệnh rất đa dạng, nhưng dấu hiệu quan trọng nhất biểu hiện tại khớp đó là: sưng, đau có tính chất đối xứng các khớp nhỏ như khớp cổ tay, bàn ngón tay; khớp cổ và bàn ngón chân kèm theo dấu hiệu phá gỉ khớp buổi sáng, nghĩa là sau một đêm, buổi sáng ngủ dậy, người bệnh thấy các khớp của mình bị dính cứng lại, cử động rất khó khăn. Sau một lúc cử động nhẹ nhàng, xoa bóp... các khớp mới mềm dần, và sau đó mới cử động được bình thường. Các triệu chứng đau có thể kéo dài (khác với triệu chứng đau khớp thoáng qua trong bệnh thấp khớp cấp - hay thấp tim), cũng có khi tự hết hoặc dưới tác động của các thuốc chống viêm - giảm đau. Bệnh thường tái đi, tái lại nhiều lần; nhất là khi thay đổi mùa, thay đổi thời tiết... dần dần dẫn đến dính, cứng các khớp và gây tàn phế cho người bệnh. Chính vì đặc điểm diễn biến kéo dài của bệnh nên việc điều trị VKDT phải mang tính chất lâu dài, bền bỉ. Nguyên tắc điều trị chung: - Việc điều trị phải kiên trì, liên tục thường là suốt cuộc đời người bệnh. - Phải sử dụng kết hợp nhiều biện pháp điều trị như nội khoa, ngoại khoa, vật lý, chỉnh hình, phục hồi chức năng. - Thời gian điều trị chia làm nhiều giai đoạn: nội trú, ngoại trú và tập luyện phục hồi chức năng. - Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc, bệnh nhân, gia đ ình người bệnh; giữa cơ sở điều trị với điều dưỡng, phục hồi chức năng và tái giáo dục nghề nghiệp. Tóm lại, việc điều trị VKDT là vấn đề mang tính chất xã hội, liên quan đến nhiều chuyên khoa, nhiều ngành khoa học. Các thuốc điều trị bệnh VKDT nhìn chung có rất nhiều tác dụng phụ, do vậy việc điều trị phải được theo dõi chặt chẽ; tuân thủ các chống chỉ định khi dùng thuốc; kịp thời thông báo cho bác sĩ nếu có những biểu hiện bất thường. Các phương pháp điều trị có thể được chia ra: - Các thuốc chống viêm, giảm đau - Điều trị theo cơ chế bệnh sinh - Các phương pháp vật lý và ngoại khoa. Việc điều trị bệnh cụ thể phải tùy thuộc vào từng giai đoạn tiến triển khác nhau của bệnh. Mỗi giai đoạn khác nhau, đòi hỏi các thuốc và những biện pháp hỗ trợ khác nhau. Các thuốc chống viêm, giảm đau: Đây là nhóm thuốc cơ bản trong điều trị các bệnh khớp nói chung và bệnh VKDT nói riêng. Gồm có : - Aspirin (axit salicilic) và các dẫn chất của nó: thuốc này có đặc điểm, nếu dùng liều thấp và trung bình sẽ có tác dụng giảm đau, hạ nhiệt, chống kết vón tiểu cầu; liều cao có tác dụng chống viêm. Liều dùng: nếu để giảm đau đơn thuần dùng 0,5-1g/ngày (khi bệnh nhân chỉ có dấu hiệu đau đơn thuần); nếu để chống viêm dùng liều từ 2- 4g/ngày (khi có sưng, nóng khớp kèm theo sốt...). Thuốc phải được uống lúc no để tránh tác dụng phụ trực tiếp trên niêm mạc dạ dày. Không dùng thuốc ở những bệnh nhân bị bệnh viêm - loét dạ dày, tá tràng hoặc có tiền sử dị ứng với aspirin. - Các thuốc giảm đau không steroid: đây là nhóm thuốc được sử dụng rộng rãi nhất trong điều trị VKDT, gồm rất nhiều nhóm khác nhau và đều có tác dụng chống viêm, giảm đau với các mức độ khác nhau. Trước đây, tất cả các thuốc nhóm này đều có tác dụng phụ bất lợi trên đường tiêu hóa, đặc biệt có thể gây loét, thủng, xuất huyết đường tiêu hóa. Ngày nay, đã có thêm ngày càng nhiều nhóm thuốc mới, tác dụng chọn lọc hơn, ít tác dụng phụ hơn trên đường tiêu hóa. Tuy nhiên, khi s ử dụng nhóm thuốc này vẫn phải luôn luôn hết sức thận trọng ở những người có tiền sử bị viêm - loét dạ dày - tá tràng và thuốc phải luôn được uống sau khi ăn no. + ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh viêm khớp dạng thấp và cách điều trị Bệnh viêm khớp dạng thấp và cách điều trị Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là một bệnh phổ biến nhất trong số các bệnh về khớp. Là một bệnh mang tính chất xã hội vì sự thường có, vì sự diễn biến kéo dài mặc dù được điều trị và còn bởi vì hậu quả cuối cùng sẽ dẫn đến sự tàn phế của người bệnh. Bệnh VKDT gặp ở mọi nơi trên thế giới, tỷ lệ mắc bệnh chung theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới vào khoảng từ 0,5 - 3% dân số (ở người lớn). Tại nước ta, bệnh VKDT chiếm tỷ lệ 0,5% trong nhân dân và 20% trong số các bệnh nhân mắc bệnh về khớp điều trị ở bệnh viện. Có thể nói VKDT là bệnh của phụ nữ tuổi trung niên, vì 70-80% bệnh nhân là nữ và 60-70% có tuổi trên 30. Bệnh có tính chất gia đình trong một số trường hợp. Bệnh có diễn biến kéo dài nhiều năm, phần lớn có tiến triển từ từ tăng dần, nhưng có tới 1/4 trường hợp có tiến triển từng đợt, có những giai đoạn lui bệnh rõ rệt. Rất hiếm thấy trường hợp lui dần rồi khỏi hẳn. VKDT là một loại bệnh hệ thống mà nguyên nhân vẫn còn đang là vấn đề được bàn luận. Người ta nhận thấy có sự phối hợp giữa những người bị VKDT với yếu tố HLA - DR4 (một loại kháng nguyên phù hợp tổ chức); ngoài ra, yếu tố di truyền hay môi trường cũng có ảnh hưởng nhiều tới bệnh sinh và tiến triển của bệnh. Biểu hiện lâm sàng của bệnh rất đa dạng, nhưng dấu hiệu quan trọng nhất biểu hiện tại khớp đó là: sưng, đau có tính chất đối xứng các khớp nhỏ như khớp cổ tay, bàn ngón tay; khớp cổ và bàn ngón chân kèm theo dấu hiệu phá gỉ khớp buổi sáng, nghĩa là sau một đêm, buổi sáng ngủ dậy, người bệnh thấy các khớp của mình bị dính cứng lại, cử động rất khó khăn. Sau một lúc cử động nhẹ nhàng, xoa bóp... các khớp mới mềm dần, và sau đó mới cử động được bình thường. Các triệu chứng đau có thể kéo dài (khác với triệu chứng đau khớp thoáng qua trong bệnh thấp khớp cấp - hay thấp tim), cũng có khi tự hết hoặc dưới tác động của các thuốc chống viêm - giảm đau. Bệnh thường tái đi, tái lại nhiều lần; nhất là khi thay đổi mùa, thay đổi thời tiết... dần dần dẫn đến dính, cứng các khớp và gây tàn phế cho người bệnh. Chính vì đặc điểm diễn biến kéo dài của bệnh nên việc điều trị VKDT phải mang tính chất lâu dài, bền bỉ. Nguyên tắc điều trị chung: - Việc điều trị phải kiên trì, liên tục thường là suốt cuộc đời người bệnh. - Phải sử dụng kết hợp nhiều biện pháp điều trị như nội khoa, ngoại khoa, vật lý, chỉnh hình, phục hồi chức năng. - Thời gian điều trị chia làm nhiều giai đoạn: nội trú, ngoại trú và tập luyện phục hồi chức năng. - Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc, bệnh nhân, gia đ ình người bệnh; giữa cơ sở điều trị với điều dưỡng, phục hồi chức năng và tái giáo dục nghề nghiệp. Tóm lại, việc điều trị VKDT là vấn đề mang tính chất xã hội, liên quan đến nhiều chuyên khoa, nhiều ngành khoa học. Các thuốc điều trị bệnh VKDT nhìn chung có rất nhiều tác dụng phụ, do vậy việc điều trị phải được theo dõi chặt chẽ; tuân thủ các chống chỉ định khi dùng thuốc; kịp thời thông báo cho bác sĩ nếu có những biểu hiện bất thường. Các phương pháp điều trị có thể được chia ra: - Các thuốc chống viêm, giảm đau - Điều trị theo cơ chế bệnh sinh - Các phương pháp vật lý và ngoại khoa. Việc điều trị bệnh cụ thể phải tùy thuộc vào từng giai đoạn tiến triển khác nhau của bệnh. Mỗi giai đoạn khác nhau, đòi hỏi các thuốc và những biện pháp hỗ trợ khác nhau. Các thuốc chống viêm, giảm đau: Đây là nhóm thuốc cơ bản trong điều trị các bệnh khớp nói chung và bệnh VKDT nói riêng. Gồm có : - Aspirin (axit salicilic) và các dẫn chất của nó: thuốc này có đặc điểm, nếu dùng liều thấp và trung bình sẽ có tác dụng giảm đau, hạ nhiệt, chống kết vón tiểu cầu; liều cao có tác dụng chống viêm. Liều dùng: nếu để giảm đau đơn thuần dùng 0,5-1g/ngày (khi bệnh nhân chỉ có dấu hiệu đau đơn thuần); nếu để chống viêm dùng liều từ 2- 4g/ngày (khi có sưng, nóng khớp kèm theo sốt...). Thuốc phải được uống lúc no để tránh tác dụng phụ trực tiếp trên niêm mạc dạ dày. Không dùng thuốc ở những bệnh nhân bị bệnh viêm - loét dạ dày, tá tràng hoặc có tiền sử dị ứng với aspirin. - Các thuốc giảm đau không steroid: đây là nhóm thuốc được sử dụng rộng rãi nhất trong điều trị VKDT, gồm rất nhiều nhóm khác nhau và đều có tác dụng chống viêm, giảm đau với các mức độ khác nhau. Trước đây, tất cả các thuốc nhóm này đều có tác dụng phụ bất lợi trên đường tiêu hóa, đặc biệt có thể gây loét, thủng, xuất huyết đường tiêu hóa. Ngày nay, đã có thêm ngày càng nhiều nhóm thuốc mới, tác dụng chọn lọc hơn, ít tác dụng phụ hơn trên đường tiêu hóa. Tuy nhiên, khi s ử dụng nhóm thuốc này vẫn phải luôn luôn hết sức thận trọng ở những người có tiền sử bị viêm - loét dạ dày - tá tràng và thuốc phải luôn được uống sau khi ăn no. + ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kiến thức y học cách dùng thuốc y học về thuốc dược phẩm sử dụng dược phẩmGợi ý tài liệu liên quan:
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 145 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 121 0 0 -
4 trang 100 0 0
-
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 97 0 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 75 0 0 -
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 48 0 0 -
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, KỸ NĂNG SỬ DỤNG ORESOL
22 trang 43 0 0 -
Những bí quyết chữa bệnh từ đậu phụ
5 trang 43 0 0 -
Nước ép quả: Nguồn dinh dưỡng cần thiết cho nhân viên văn phòng
3 trang 41 0 0 -
Câu hỏi trắc nghiệm: Chuyển hóa muối nước
11 trang 39 0 0