Danh mục

Bùi Sỹ Tiêm - Một trí thức chân chính của dân tộc

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 107.08 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bùi Sỹ Tiêm (1690-1733) người tỉnh Thái Bình, đỗ Tiến sĩ năm 25 tuổi, làm quan thanh liêm, cương trực. Trước thời buổi vận nước rối ren, ông đã dâng sớ điều trần đòi cải cách do đó đã bị chúa Trịnh cách chức. Về quê, ông mở trường dạy học, nêu tấm gương sáng về nhân cách một sĩ phu hết lòng vì nước. Bùi Sỹ Tiêm sinh năm Canh Ngọ (1690) tại xã Kinh Lũ, tổng Bình Cách, huyện Đông Quan (nay là thôn Kinh Hào, xã Đông Kinh, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình). Thuở nhỏ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bùi Sỹ Tiêm - Một trí thức chân chính của dân tộc Bùi Sỹ Tiêm - Một trí thức chân chính của dân tộc Bùi Sỹ Tiêm (1690-1733) người tỉnh Thái Bình, đỗ Tiến sĩ năm 25tuổi, làm quan thanh liêm, cương trực. Trước thời buổi vận nước rối ren, ôngđã dâng sớ điều trần đòi cải cách do đó đã bị chúa Trịnh cách chức. Về quê,ông mở trường dạy học, nêu tấm gương sáng về nhân cách một sĩ phu hếtlòng vì nước. Bùi Sỹ Tiêm sinh năm Canh Ngọ (1690) tại xã Kinh Lũ, tổng BìnhCách, huyện Đông Quan (nay là thôn Kinh Hào, xã Đông Kinh, huyện ĐôngHưng, tỉnh Thái Bình). Thuở nhỏ học tại quê nhà, nổi tiếng thông minh.Năm 1706 Bùi Sỹ Tiêm được lên Thăng Long theo học thầy Thám Hoa họVũ đang giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Cùng thi thố với hơn 1.000 thísinh ở Quốc Tử Giám vào nhiều kỳ, lần nào Bùi Sỹ Tiêm cũng được xếp ởbảng với những người đứng đầu. Sau khi về quê chịu tang mẹ, ông tiếp tụclên Kinh học, và năm 1715 thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng Giáp). Tháng10-1715, ông được gọi vào Kinh giữ chức Hàn lâm viện Hiệu Lý, cuối nămthăng chức Hiến sát sứ Sơn Tây coi viện hình án. Năm 1720 thăng chứcĐông Các hiệu thu, năm 1727 thăng Đông Các học sĩ, năm 1729 giữ chứcĐốc đồng xứ Thái Nguyên, năm 1730 thăng chức Hoằng Tín Đại phu, TháiThường tự khanh. Khi được vua giao cho soạn bài ký lên tấm bia khắc tên20 vị đỗ Tiến sĩ khoa ất Mùi (1715), Bùi Sỹ Tiêm đã khẳng định cái tâmnguyện của người làm quan: Phải nghiêm khắc đối với mình, giữ vững đứcthanh liêm và phẩm chất trong trắng, làm quan trong triều phải chính trực,trung hậu và đem đạo đức nhân nghĩa giúp vua... Nếu lòng thay, dạ đổi, lờinói và việc làm không ăn khớp với nhau, chỉ nghĩ đến danh tước, tiền của,mưu tính về quyền lợi còn hay mất, hơn hay thiệt, bề ngoài vuông mà bềtrong tròn, việc làm trái với điều đã học và xa rời đạo lý, bôi nhọ danh tiết,bôi xấu sĩ phong thì mọi người sẽ chỉ vào tên mà chê trách. Dư luận rấtnghiêm, nghìn năm rõ rệt, có đáng sợ không.... Bước đường công danh của Bùi Sỹ Tiêm như vậy là hết sức thuận lợi,nhưng ông không bằng lòng với những kết quả đạt được, mà khi cần thiết đãthể hiện một nhân cách và bản lĩnh khá đặc biệt. Năm 1731, ông can đảmdâng sớ đề nghị cải cách xã hội và vì việc làm đó bị bãi chức đuổi về quê. Bùi Sỹ Tiêm sống vào cuối thế kỷ 17 và nửa đầu thế kỷ 18 là thời kỳchế độ phong kiến Việt Nam đang ngày càng lún sâu vào khủng hoảng trầmtrọng. Ngay từ đầu thế kỷ 16, nhất là sau khi Lê Hiển Tông mất (1504), xãhội Đại Việt mất dần cảnh thịnh trị, kinh tế bắt đầu sa sút, đời sống nhân dântrở nên cùng khổ. Lợi dụng tình trạng sa đọa của chính quyền trung ương,các phe phái phong kiến theo nhau nổi dậy tranh giành quyền lợi, bọn quanlại trong triều cũng như ngoài địa phương mặc sức nhũng nhiễu nhân dân,một số tướng lĩnh có công với nhà Lê cũng tranh chấp lẫn nhau suốt trongthời gian dài. Trong bối cảnh đó, phong trào nông dân khởi nghĩa phát triển mạnhmẽ, lan tràn khắp miền xuôi cũng như miền núi, có lần tiến thẳng vào ThăngLong, vua tôi nhà Lê phải bỏ chạy vào Thanh Hóa. Cuộc đấu tranh của nôngdân thời đó đã góp phần vào cuộc khủng hoảng chính trị đang làm lung layđến tận gốc rễ nền thống trị của nhà Lê. Năm 1527, Mạc Đăng Dung bứcvua Lê phải nhường ngôi đã kéo theo tình trạng đất nước bị chia cắt, hếtchiến tranh giữa Nam triều (nhà Lê) với Bắc triều (nhà Mạc) đến chiến tranhgiữa Đàng Ngoài (họ Trịnh lấy danh nghĩa nhà Lê) với Đàng Trong (họNguyễn). Chiến tranh phong kiến kéo dài gây ra bao cảnh đau thương, chếtchóc, đẩy hàng chục vạn trai tráng vào cảnh phải chém giết lẫn nhau vìquyền lợi ích kỷ của các dòng họ, lại còn tàn phá mùa màng, gây nên nhiềutrận đói khủng khiếp xảy ra trong nhiều năm. Kết quả là sau hơn nửa thế kỷđánh nhau, ở Đàng Trong (họ Nguyễn) làm chủ cả một vùng đất rộng lớn từphía nam dải Hoành Sơn (Đèo Ngang) đến Mũi Cà Mau. Còn ở Đàng Ngoài,từ đầu tháng 5-1593, tuy vua Lê (Thế Tông) được họ Trịnh rước từ ThanhHóa về Thăng Long, nhưng thực tế quyền hành đều nằm trong tay họ Trịnh. Quan lại bấy giờ được tuyển chọn chủ yếu theo con đường khoa cử,nhưng không được chặt chẽ như thế kỷ 15. Hình thức bảo cử với hàng loạtvụ việc tiêu cực được chúa Trịnh nhiều lần sử dụng. Chúa Trịnh lại còn địnhlệ cho dân nộp thóc hay tiền để được bổ dụng Tri phủ hay Tri huyện. Điềuđó đã dẫn đến tình hình: Bấy giờ quan chức nhũng lạm, phức tạp, một lúccất nhắc bổ dụng đến hơn 1.000 người, làm quan cầu may, viên chức thừathãi, không còn phân biệt gì cả (Đại Việt sử ký toàn thư). Do những hậu quả nặng nề của chiến tranh kéo dài trong nhiều năm,cộng thêm là sự phát triển tự phát của chế độ tư hữu về ruộng đất, lại thêmhạn hán rồi lụt lội, dẫn tới nạn đói gần như thường trực đối với người nôngdân đồng bằng Bắc Bộ. Đã vậy, chế độ tô thuế của nhà nước phong kiếnkhông ngừng gia tăng đè nặng lên đầu, lên cổ nông dân các ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: