Các quy luật tác động tới sự vận hành của thị trường BĐS 3
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 191.62 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tài liệu tham khảo các quy luật tác động tới sự vận hành của thị trường BĐS
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các quy luật tác động tới sự vận hành của thị trường BĐS 3 Các quy luật tác động tới sự vận hành của thị trường BĐS3. Quan hệ cung-cầu BĐS. Các quy luật tác động tới sự vận hành của thịtrường BĐS:3.1. Quan hệ cung-cầu BĐS:a. Sự cân bằng cung-cầu BĐS:Như chúng ta đã biết, cung cầu có thể cân bằng ở bất cứ thời điểm nào và chúng tacó giá cân bằng. Nếu các yếu tố khác không đổi, một sự tăng lên của cầu hay giảmxuống của cung sẽ làm tăng lên và ngược lại sự giảm của cầu hoặc tăng lên củacung sẽ làm giá cả giảm xuống. Do đó, trong thị trường cạnh tranh, giá cả điều tiếtlượng cung và cầu.Nhưng sự cân bằng cung-cầu BĐS chỉ xảy ra trong một thời điểm rất ngắn vàmang tính tương đối, vì cung-cầu BĐS luôn luôn có sự biến động và các dao độngcung-cầu trên thị trường BĐS đã làm thay đổi trạng thái cân bằng cung-cầu, sựdao động này có thể là cung lớn hơn cầu, cung nhỏ hơn cầu dẫn tới sự tăng lênhoặc giảm xuống của giá cả BĐS v.v.. để rồi sau một thời gian nhất định (chu kỳ),quan hệ cung-cầu lại đạt tới một sự cân bằng mới với một mặt bằng giá cả BĐSmới trên thị trường BĐS.. Sự mất cân bằng cung-cầu BĐS:Chúng ta có thể xem xét 3 ví dụ sau đây chúng ta để có thể hình dung được sự mấtcân bằng cung-cầu BĐS và những hệ quả của nó đối với sự phát triển của thịtrường BĐS nói riêng và nền kinh tế nói chung (thông thường sự mất cân bằngcung-cầu quá mức sẽ dẫn tới các “cơn sốt nóng” hoặc “tình trạng đóng băng” trênthị trường BĐS :b1. Thái Lan:Bắt đầu từ những năm 1985, khi Thái Lan thực thi chính sách nới lỏng về tài chínhvà cho phép người đầu tư nước ngoài tham gia vào đầu tư trong nước, nền kinh tếThái Lan có những bước tăng trưởng nhảy vọt. Các ngân hàng mọc lên ở khắp nơicũng như mọt lượng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào trong nước. Chỉ trong vòng 3năm, đến năm 1995, Thái Lan đã tăng được gấp đôi lượng vốn đầu tư nước ngoài.Tuy nhiên, lượng vốn đầu tư nước ngoài này chủ yếu lại rót vào lĩnh vực BĐS khiđó đang là một lĩnh vực đầu tư rất có lời do giá tăng vọt. Vốn đầu tư được đưa vàodưới 2 hình thức: vay nợ qua ngân hàng và huy động qua thị trường chứng khoán.Với sự trung gian của hệ thống các ngân hàng thương mại, chủ đầu tư vay vốnngắn hạn (chủ yếu là 6 tháng) từ nước ngoài để tài trợ cho các dự án có thời giantừ 18 tháng đến 2 năm. Mặt khác, thông qua thị trường chứng khoán, vốn đượcđưa vào các dự án thông qua các quỹ đầu tư BĐS.Vậy, có gì sai lầm khi một lượng vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào lĩnh vựcnày? Theo nhận định của các chuyên gia nước ngoài, hàng hóa trong lĩnh vực BĐSchỉ được trao đổi và đáp ứng nhu cầu trong nước mà không thể xuất khẩu cũngnhư mang lại các nguồn thu nhập về ngoại tệ để cân bằng cán cân thanh toán.Thêm vào đó, tình hình đầu tư vào BĐS tràn lan bởi việc vay vốn từ ngân hàng vàhuy động qua thị trường chứng khoán quá dễ dàng. Trong cơ cấu vay nợ của cácngân hàng thương mại Thái Lan, vốn cho vay để đầu tư vào lĩnh vực BĐS chiếm10 đến 35%. Bên cạnh đó, hình thức đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứngkhoán cao. Tỷ lệ đầu tư nước ngoài trực tiếp của Thái Lan vào nhà xưởng, tư liệusản xuất... rất thấp so với các nước trong khu vực.Cái gì đến phải đến. Từ năm 1995, sự kết hợp của một số yếu tố khách quan nhưsự lên giá của đồng USSD, sự cạnh tranh mạnh mẽ từ phía Trung Quốc, sự sụtgiảm nhu cầu thế giới về các sản phẩm bán dẫn, một sản phẩm xuất khẩu chínhcủa Thái Lan, đưa nền kinh tế Thái Lan rơi vào khủng hoảng, thu nhập và tiêudùng giảm mạnh. Về phía thị trường trong nước, thị trường BĐS một mặt bị thuhẹp và bị giới hạn bởi nhu cầu nội địa trong khi đầu tư tràn lan đã gây mất cânbằng trong quan hệ cung-cầu.Theo thống kê, đến năm 1997, tỷ lệ không sử dụng BĐS ở Thái Lan tăng ở mức15%. Giá BĐS rớt xuống, lĩnh vực đầu tư này không còn là lĩnh vực sinh lợi chocác chủ đầu tư như trước đây. Không giải quyết được đầu ra cho BĐS, các chủ đầutư không trả được nợ vay ngân hàng. Hậu quả là lượng vốn vay trong ngân hàng ởdạng không có khả năng thu hồi vốn là rất lớn. Các ngân hàng theo đó không cókhả năng thanh toán các khoản nợ vay từ nước ngoài. Hệ thống tài chính ngânhàng khủng hoảng.Mặt khác, như đã nói ở trên, BĐS không đóng góp vào cán cân xuất nhập khẩucủa đất nước trong khi bản thân lại thu hút rất nhiều vốn đầu tư từ nước ngoài. Sựmất cân đối như vậy là cơ hội cho các nhà đầu cơ nước ngoài. Với sự nhìn nhậnnền kinh tế Thái Lan đang giảm dần tốc độ phát triển, hệ thống ngân hàng khủnghoảng, cán cân thương mại bị suy giảm, các nhà đầu cơ đã tìm cách rút vốn khỏiThái Lan thông qua việc bán chứng khoán hoặc rút tiền khỏi ngân hàng. Hệ thốngngân hàng vì thế lại càng lâm vào tình trạng khó khăn. Giờ đây, ngay cả những dựán sinh lợi cũng khó có thể tìm được nguồn vốn đầu tư. Nền kinh tế cứ thế theovòng xoáy mà chìm sâu vào cơn lốc khủng hoảng.b2. Xing-ga-po:Vào khoảng giữa thập niên 1970, có một cặp vợ chồng người Xing-ga-po đứng rathành lập một công ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các quy luật tác động tới sự vận hành của thị trường BĐS 3 Các quy luật tác động tới sự vận hành của thị trường BĐS3. Quan hệ cung-cầu BĐS. Các quy luật tác động tới sự vận hành của thịtrường BĐS:3.1. Quan hệ cung-cầu BĐS:a. Sự cân bằng cung-cầu BĐS:Như chúng ta đã biết, cung cầu có thể cân bằng ở bất cứ thời điểm nào và chúng tacó giá cân bằng. Nếu các yếu tố khác không đổi, một sự tăng lên của cầu hay giảmxuống của cung sẽ làm tăng lên và ngược lại sự giảm của cầu hoặc tăng lên củacung sẽ làm giá cả giảm xuống. Do đó, trong thị trường cạnh tranh, giá cả điều tiếtlượng cung và cầu.Nhưng sự cân bằng cung-cầu BĐS chỉ xảy ra trong một thời điểm rất ngắn vàmang tính tương đối, vì cung-cầu BĐS luôn luôn có sự biến động và các dao độngcung-cầu trên thị trường BĐS đã làm thay đổi trạng thái cân bằng cung-cầu, sựdao động này có thể là cung lớn hơn cầu, cung nhỏ hơn cầu dẫn tới sự tăng lênhoặc giảm xuống của giá cả BĐS v.v.. để rồi sau một thời gian nhất định (chu kỳ),quan hệ cung-cầu lại đạt tới một sự cân bằng mới với một mặt bằng giá cả BĐSmới trên thị trường BĐS.. Sự mất cân bằng cung-cầu BĐS:Chúng ta có thể xem xét 3 ví dụ sau đây chúng ta để có thể hình dung được sự mấtcân bằng cung-cầu BĐS và những hệ quả của nó đối với sự phát triển của thịtrường BĐS nói riêng và nền kinh tế nói chung (thông thường sự mất cân bằngcung-cầu quá mức sẽ dẫn tới các “cơn sốt nóng” hoặc “tình trạng đóng băng” trênthị trường BĐS :b1. Thái Lan:Bắt đầu từ những năm 1985, khi Thái Lan thực thi chính sách nới lỏng về tài chínhvà cho phép người đầu tư nước ngoài tham gia vào đầu tư trong nước, nền kinh tếThái Lan có những bước tăng trưởng nhảy vọt. Các ngân hàng mọc lên ở khắp nơicũng như mọt lượng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào trong nước. Chỉ trong vòng 3năm, đến năm 1995, Thái Lan đã tăng được gấp đôi lượng vốn đầu tư nước ngoài.Tuy nhiên, lượng vốn đầu tư nước ngoài này chủ yếu lại rót vào lĩnh vực BĐS khiđó đang là một lĩnh vực đầu tư rất có lời do giá tăng vọt. Vốn đầu tư được đưa vàodưới 2 hình thức: vay nợ qua ngân hàng và huy động qua thị trường chứng khoán.Với sự trung gian của hệ thống các ngân hàng thương mại, chủ đầu tư vay vốnngắn hạn (chủ yếu là 6 tháng) từ nước ngoài để tài trợ cho các dự án có thời giantừ 18 tháng đến 2 năm. Mặt khác, thông qua thị trường chứng khoán, vốn đượcđưa vào các dự án thông qua các quỹ đầu tư BĐS.Vậy, có gì sai lầm khi một lượng vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào lĩnh vựcnày? Theo nhận định của các chuyên gia nước ngoài, hàng hóa trong lĩnh vực BĐSchỉ được trao đổi và đáp ứng nhu cầu trong nước mà không thể xuất khẩu cũngnhư mang lại các nguồn thu nhập về ngoại tệ để cân bằng cán cân thanh toán.Thêm vào đó, tình hình đầu tư vào BĐS tràn lan bởi việc vay vốn từ ngân hàng vàhuy động qua thị trường chứng khoán quá dễ dàng. Trong cơ cấu vay nợ của cácngân hàng thương mại Thái Lan, vốn cho vay để đầu tư vào lĩnh vực BĐS chiếm10 đến 35%. Bên cạnh đó, hình thức đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứngkhoán cao. Tỷ lệ đầu tư nước ngoài trực tiếp của Thái Lan vào nhà xưởng, tư liệusản xuất... rất thấp so với các nước trong khu vực.Cái gì đến phải đến. Từ năm 1995, sự kết hợp của một số yếu tố khách quan nhưsự lên giá của đồng USSD, sự cạnh tranh mạnh mẽ từ phía Trung Quốc, sự sụtgiảm nhu cầu thế giới về các sản phẩm bán dẫn, một sản phẩm xuất khẩu chínhcủa Thái Lan, đưa nền kinh tế Thái Lan rơi vào khủng hoảng, thu nhập và tiêudùng giảm mạnh. Về phía thị trường trong nước, thị trường BĐS một mặt bị thuhẹp và bị giới hạn bởi nhu cầu nội địa trong khi đầu tư tràn lan đã gây mất cânbằng trong quan hệ cung-cầu.Theo thống kê, đến năm 1997, tỷ lệ không sử dụng BĐS ở Thái Lan tăng ở mức15%. Giá BĐS rớt xuống, lĩnh vực đầu tư này không còn là lĩnh vực sinh lợi chocác chủ đầu tư như trước đây. Không giải quyết được đầu ra cho BĐS, các chủ đầutư không trả được nợ vay ngân hàng. Hậu quả là lượng vốn vay trong ngân hàng ởdạng không có khả năng thu hồi vốn là rất lớn. Các ngân hàng theo đó không cókhả năng thanh toán các khoản nợ vay từ nước ngoài. Hệ thống tài chính ngânhàng khủng hoảng.Mặt khác, như đã nói ở trên, BĐS không đóng góp vào cán cân xuất nhập khẩucủa đất nước trong khi bản thân lại thu hút rất nhiều vốn đầu tư từ nước ngoài. Sựmất cân đối như vậy là cơ hội cho các nhà đầu cơ nước ngoài. Với sự nhìn nhậnnền kinh tế Thái Lan đang giảm dần tốc độ phát triển, hệ thống ngân hàng khủnghoảng, cán cân thương mại bị suy giảm, các nhà đầu cơ đã tìm cách rút vốn khỏiThái Lan thông qua việc bán chứng khoán hoặc rút tiền khỏi ngân hàng. Hệ thốngngân hàng vì thế lại càng lâm vào tình trạng khó khăn. Giờ đây, ngay cả những dựán sinh lợi cũng khó có thể tìm được nguồn vốn đầu tư. Nền kinh tế cứ thế theovòng xoáy mà chìm sâu vào cơn lốc khủng hoảng.b2. Xing-ga-po:Vào khoảng giữa thập niên 1970, có một cặp vợ chồng người Xing-ga-po đứng rathành lập một công ...
Gợi ý tài liệu liên quan:
-
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đầu tư chứng khoán của sinh viên tại Tp. Hồ Chí Minh
7 trang 570 12 0 -
2 trang 506 0 0
-
Nghị định số 11/2013/NĐ-CP về quản lý đầu tư phát triển đô thị
32 trang 379 0 0 -
Các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư chứng khoán của giới trẻ Việt Nam
7 trang 298 0 0 -
Giáo trình Đầu tư và kinh doanh bất động sản: Phần 2
208 trang 292 5 0 -
Làm giá chứng khoán qua những con sóng nhân tạo
3 trang 283 0 0 -
Luật chứng khoán Nghị định số 114/2008/NĐ - CP
10 trang 224 0 0 -
Nhiều công ty chứng khoán ngược dòng suy thoái
6 trang 206 0 0 -
6 trang 182 0 0
-
Quản trị danh mục đầu tư: Cổ phiếu-Chương 1: Mô hình C.A.P.M
63 trang 158 0 0