Con đường dự phòng để đưa thuốc vào khi chưa tiêm được thuốc vào tĩnh mạch, đó là tiêm thuốc vào khí quản bệnh nhân. Liều dùng theo đường này cần cao hơn là 5mg adrenalin pha trong 5ml huyết thanh mặn 0,9%. Vị trí tiêm là khe sụn giáp-nhẫn, vừa chọc kim vừa hút nhẹ bơm tiêm đến khi thấy không khí tràn vào trong lòng bơm tiêm một cách dễ dàng chứng tỏ mũi kim đã nằm trong lòng khí quản, bơm nhanh thuốc vào, sau khi rút kim ra, bệnh nhân phải được thông khí và...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cấp cứu ngừng tim phổi (Kỳ 3) Cấp cứu ngừng tim phổi (Kỳ 3) Con đường dự phòng để đưa thuốc vào khi chưa tiêm được thuốc vào tĩnhmạch, đó là tiêm thuốc vào khí quản bệnh nhân. Liều dùng theo đường này cầncao hơn là 5mg adrenalin pha trong 5ml huyết thanh mặn 0,9%. Vị trí tiêm là khesụn giáp-nhẫn, vừa chọc kim vừa hút nhẹ bơm tiêm đến khi thấy không khí trànvào trong lòng bơm tiêm một cách dễ dàng chứng tỏ mũi kim đã nằm trong lòngkhí quản, bơm nhanh thuốc vào, sau khi rút kim ra, bệnh nhân phải được thông khívà ép tim ngay. Nhờ động tác thông khí, thuốc được đưa vào phế nang rồi ngấm sang màngphế nang - mao mạch vào tuần hoàn phổi rồi nhờ động tác ép tim về tim làm timđập lại. Không nên nhắc lại việc tiêm thuốc vào khí quản quá nhiều lần vì làmngập nước phổi bệnh nhân. Con đường cuối cùng để đưa thuốc vào khi các con đường trên không thựchiện được hoặc không có hiệu quả là tiêm thuốc vào buồng tim. Cần chọn kimtiêm dài 7 - 10cm để có thể chọc tới buồng tim, kim mảnh cỡ 18 - 20Gauge để hạnchế tổn thương cơ tim. Vị trí tiêm là khoang liên sườn 4 - 5 sát cạnh xương ức bêntrái, sát bờ trên xương sườn dưới để tránh màng phổi và bó mạch thần kinh liênsườn. Hướng kim là từ dưới lên trên, từ ngoài vào trong, từ trước ra sau, vừa chọcvừa hút nhẹ bơm tiêm đến khi máu trào vào bơm tiêm một cách dễ dàng chứng tỏmũi kim đã nằm trong buồng tim thì bơm nhanh thuốc vào. Sau khi rút kim rabệnh nhân cần được ép tim và thông khí ngay. + Các thuốc khác: - Các thuốc kiềm máu chỉ thực sự cần thiết khi tim đập lại và có huyết áp,nhưng khi cấp cứu hồi sinh kéo dài có thể sử dụng với liều 1mEq HCO3- cho 1kgcân nặng cho 30 phút cấp cứu . - Ca++ gây tổn thương tế bào nên hiện chỉ dùng cho các trường hợp ngừngtim do hạ Ca++ máu hoặc ngộ độc các thuốc ức chế Ca++. - Các thuốc chống rung thất và loạn nhịp tim như lidocain dùng với liều1,5mg/kg, bretylium 4,5mg/kg khi có chỉ định. - Truyền dịch khôi phục khối lượng tuần hoàn chỉ có ý nghĩa quyết địnhtrong trường hợp nguyên nhân ngừng tim là do mất máu và dịch thể cấp tính. Còntuyệt đại đa số các trường hợp khác, chỉ cần truyền 200 - 300ml huyết thanh mặn0,9% trong suốt quá trình cấp cứu, chủ yếu là giữ một đường tĩnh mạch chắc chắnđể đưa thuốc vào cơ thể. 6.5. Phá rung bằng sốc điện: Rung thất là tình trạng các thớ cơ tim rung lên một cách hỗn loạn, khôngcòn khả năng tống máu đi nuôi cơ thể và được coi là ngừng tuần hoàn. Phá rungbằng sốc điện là dùng dòng điện có hiệu điện thế thấp nhưng có cường độ lớnphóng qua trục của tim, nhằm xoá sạch các ổ phát xung hỗn loạn, khôi phục lạitính tự động bình thường của hệ thần kinh tim. Rung thất biểu hiện trên điện tim là mất phức bộ QRS mà thay bằng cácsóng lổn nhổn, nếu biên độ > 7mm (ở đạo trình ngoại vi) là rung thất biên độ lớnthường đáp ứng tốt với sốc điện, nếu < 7mm là rung thất biên độ nhỏ, đáp ứngkém với sốc điện, cần kiên trì ép tim và thông khí giàu oxy để chuyển rung thấtbiên độ nhỏ thành rung thất biên độ lớn, phá rung sẽ hiệu quả hơn. Liều sốc điện thông thường là: - Lần 1 : 200j - Lần 2 : 200j - Lần 3 : 300j - Lần 4 : 360j nếu chưa phá được rung thất. Hiện nay, các máy phá rung bán tự động rất phổ biến trên thế giới, nó chophép tự phát hiện rung thất và phóng xung điện. Các thế hệ máy mới đã thay dòngđiện có xung hình sin kinh điển bằng dòng điện 2 pha (biphasic) dùng năng lượngthấp hơn, ít gây tổn thương cơ tim hơn. 6.6. Khái niệm về trạng thái sau hồi sinh và hồi sinh tim-phổi- não: Mặc dù được cấp cứu sớm và tốt, tim đập lại nhưng bệnh nhân sẽ có tiênlượng xấu nếu trên nền bệnh lý mạn tính giai đoạn cuối. Nếu ngừng tim - phổi trênngười trước đó khoẻ mạnh, sau tình trạng thiếu oxy nặng nề kéo dài như vậy, mặcdù tim đã đập lại nhưng tình trạng bệnh nhân vẫn còn rất nặng, đặc biệt là do tìnhtrạng thiếu oxy não kéo dài. Các bệnh nhân này cần được theo dõi điều trị tại cáckhoa điều trị tích cực nhằm giữ cho huyết động ổn định, cung cấp oxy đầy đủ.Việc hồi sức não chủ yếu là cung cấp oxy cùng với áp lực tưới máu não thỏa đáng,duy trì tính ổn định của nội môi như đường máu, áp lực thẩm thấu máu, pH, paO2,paCO2 trong giới hạn bình thường, sử dụng các biện pháp làm giảm tiêu thụ oxynão có tính chất bảo vệ não như bacbituric, hạ thân nhiệt vừa phải (350C). Nhưvậy, nếu ở tuyến đơn vị, sau khi đã cấp cứu tim đập lại, bệnh nhân cần đượcchuyển lên tuyến trên hoặc mời tuyến trên xuống cấp cứu tùy trường hợp cụ thể. 7. Khi nào ngừng cấp cứu. Nếu đã áp dụng đúng, đầy đủ các biện pháp cấp cứu như trên, không cóđiều kiện vận chuyển hoặc gọi tuyến trên chi viện, trong vòng 30 phút mà đồng tửkhông co lại, tim không đập lại thì cho phép ngừng cấp cứu và bệnh nhân tử vong.Cần lưu ý các trường hợp ngừn ...