Tham khảo tài liệu 'cọ bầu', nông - lâm - ngư, lâm nghiệp phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CỌ BẦU
CỌ BẦU
Livistona saribus Merr. ex A.Chev. 1919
Tên đồng nghĩa: Livistona cochinchinensis (Blume) Mart; Corypha saribus Lour. Saribus
cochinchinensis Blume
Tên khác: Cọ, lá gồi, kè nam
H ọ: Cau Dừa - Palmae
Hình thái
Thân trụ hoá gỗ mọc thẳng, đơn độc,
không phân nhánh; cao 20-25cm, đường
kính 15-30cm, mang nhiều gốc lá tồn tại. Lá
dài tới 1,6m, cuống lá có nhiều gai cứng,
màu nâu, nhất là ở phía gốc; gai dài 2-3cm,
gốc rộng 15-18mm, đầu thường cong; phiến
lá màu lục, chia thành các thùy, trên đầu có
2 mũi nhọn, đôi khi dài tới 80cm.
Cụm hoa hình chùy, có 3 mo hình ống
và mang các cụm hoa chùy thứ cấp, với 7-8
cành dài 15-30cm, nhẵn và hơi dẹt. Hoa
lưỡng tính tập hợp 3-5 chiếc hay hơn,
không cuống, hình cầu khi còn là nụ dài 15-
18mm. Lá đài 3, lợp, hình trái xoan tù, dài
2mm. Cánh hoa 3, xếp van, có hình dạng và
kích thước bằng nhau. Nhị đực 6; bao phấn
hình trái xoan, gốc hình tim; chỉ đính vào 1/3
phía gốc, rất mảnh; gốc phình to và dính lại.
Bầu 3 lá noãn hợp, đỉnh thót nhọn, hình
Cọ bầu - Livistona saribus Merr. ex A.Chev.
trứng - tam giác ở gốc, cao 1,5mm. Rộng
1,2mm; noãn 3, mỗi lá noãn mang 1 noãn, 1. Cây non; 2. Cuống lá
đính gốc; vòi 3, đỉnh rời, hình tam giác nhọn.
Quả hình cầu, đường kính 11-13mm, có cuống do các bao hoa hợp lại, màu xanh, khi chín; hạt
hình cầu, đường kính 9-10mm; tễ mảnh.
Các thông tin khác về thực vật
Ở Việt Nam chi Cọ (Livistona R.Br.) có 4 loài với các đặc điểm khác nhau:
1/ Cọ bầu (Livistona saribus Merr. ex A.Chev). Cây phổ biến nhất, mọc ở trong các rừng
thường xanh có độ ẩm cao, được trồng nhiều từ miền núi đến trung du và đồng bằng. Đầu lá
không rủ.
2/ Cọ xẻ hay kè (L. chinensis R. Br.). Cây trồng là chủ yếu; đầu lá rủ xuống, chịu nước hơn
cọ bầu, trồng nhiều ở vùng đồng bằng vì chịu được mực nước cao trong đất. Đầu lá rủ.
3/ Cọ bắc bộ (L. Tonkinensis Magalon) Phát hiện và mô tả năm 1930 tại vùng sông Chảy.
Cây to, đầu lá không rủ giống cọ bầu, chỉ khác trên thân không tồn tại cuống lá. và đầu lá xẻ 4-
5 thuỳ. Rất ít tài liệu về loài này.
4/ Cọ Hạ long (L. halongensis T. H. Hiep & Kiem). Phát
hiện và mô tả ở các đảo thuộc vịnh Hạ Long năm 2000. Thân
hoá gỗ, cao khoảng 10m, cụm hoa trên ngọn. mọc trên các
đảo đá vôi của vịnh.
Phân bố
Việt Nam:
Cọ bầu vừa mọc tự nhiên hoặc được trồng ở các tỉnh và
thành phố: Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Cao Bằng, Lạng
Sơn, Quảng Ninh, Hà Bắc, Hà Tây, Hà Nội, Ninh Bình, Thanh
Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Quảng Bình,
Quảng Trị, các tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Tập trung
nhất ở vùng miền núi và trung du thuộc vùng Đông Bắc Việt
Nam, ở các tỉnh: Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc
Kạn.
Thế giới:
Cọ bầu phân bố ở Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia,
Philippin, Indonesia.
Đặc điểm sinh học
Cọ bầu là cây ưa sáng và ẩm, mọc tự nhiên trong các
Phân bố của cọ bầu ở Việt Nam
rừng nhiệt đới thường xanh ẩm trên độ cao dưới 700m ở
miền Bắc và dưới 1.000m ở miền Nam. Cây thường mọc ở
các rừng thứ sinh mới bị mở tán nhẹ. Trong rừng nguyên sinh rất ít gặp cọ bầu vì cây non mới
tái sinh của loài này là cây ưa bóng, nhưng khi cây cao độ 1m, chuyển thành cây ưa sáng,
chúng không tồn tại được lâu dài dưới tán của các rừng cây gỗ rậm rạp. Thường cùng mọc với
các loài cây gỗ ưa sáng khác như: Sâng, chẹo, trám trắng, trám đen, thôi ba...
Cây mọc rất chậm, thường mỗi tháng ra thêm 1 lá mới. Cọ bầu cho rất nhiều quả, tái sinh
tốt ngay dưới tán hoặc được các loài chim và thú ăn quả, rồi phát tán hạt đi rất xa gốc cây mẹ.
Khi rừng bị mở tán mạnh, cọ bầu tái sinh thành từng đám thuần loại khoảng vài chục cây.
Cây ưa đất vùng đồi có độ đốc dưới 150, mức nước ngầm thấp và thoát nước tốt. Vì vậy
chỉ gặp cọ xẻ mọc ở vùng thấp, đất bằng, quanh ruộng lúa (như ở Thanh Hoá, Nghệ An), chứ
không gặp cọ bầu ở trên các lập địa như trên.
Cọ bầu ra hoa tháng 10-12 và quả chín vào tháng 2-5 năm sau.
Công dụng
Cọ là cây đa tác dụng, sản phẩm của cọ gồm nhiều loại và được dùng khá phổ biến trong
nhân dân ta như:
- Lá cọ: lá già dùng lợp nhà rất bền và mát, dùng được 10-15 năm. Lá non (búp cọ) dùng
đan nón, mũ, làm quạt. Cuống lá (cáp cọ), dài tới 5-6m (trong rừng ẩm), dùng chẻ nan đan
hàng mỹ nghệ, làm chiếu cọ hoặc mành cọ, cũng có thể dùng để đun. Thường thu 1.000 lá cọ
thì được 400kg lá. Giá khoảng 20.000đ/tạ cáp tươi, và 60.000đ/tạ cáp khô (năm 2005). Thường
3kg cáp tươi được 1kg cáp khô. Trung bình 1 cuống lá cho 9-12 nan và để dẹt mành chiếu cần
khoảng 280-330 nan.
Gần đây (từ năm 2000), xước cọ (hay gân lá cọ; được chế biến bằng cách loại bỏ phần thịt
lá), là mặt hàng được thị trường Trung Quốc ưa chuộng. Khoảng 6-7 chiếc lá thì chế biến được
1kg xước. Từ xước cọ có thể chế biến chổi quét, lẵng đựng hoa quả hay đèn lồng và một số
vật dụng khác. Giá đầu năm 2005 tại Lạng Sơn là 3.000- 4.500đồng/kg xước.
- Quả cọ. Trung bình một cây hàng năm cho 30-50kg quả. Thường để tồn tại trên cây, ít
được thu hái để ăn. Quả có thể dùng để muối dưa cọ, ỏm cọ (luộc đến nhiệt độ khoảng 60-
700C, khi nước lăn tăn thì thôi). Quả cọ cũng dùng ủ mầm làm giá ăn như giá đỗ. Nhân quả cọ
có dầu béo, có thể ép dầu dùng thay mỡ ăn. Giá trị dinh dưỡng nhân hạt cọ: hàm lượng lipit 9-
12%, đường 0,8-2,4%, protein 1,5-2,2%, chất khoáng 1-1,4%. Trong dầu cọ có nhiều tanin nên
vị dầu hơi chát, cần phải khử bớt. Hiện nay dầu cọ hầu như không còn được dùng nữa.
Ngoài ra có còn nhiều tác dụng khác như: Thân làm chõ xôi, làm đòn gánh, chấn song cửa
xổ, làm gỗ ván sàn, máng hứng nước, cầu bắc qua suối nhỏ và làm nhiều hàng thủ công mỹ
nghệ khác.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Hiện nay nhân dân chưa có tập quán gieo ươm cọ. Do cọ cho nhiều quả và hạt cọ dễ tái
sinh thành cây con, nê ...