Danh mục

Cổ Tích – An nam chỉ lược

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 111.72 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Việt-Vương-Thành, tục gọi là thành Khả-Lũ, có một cái ao cổ, Quốc-vơng mỗi năm lấy ngọc châu, dùng nước ao ấy rửa thì sắc ngọc tươi đẹp. GiaoChâu Ngoại-Vực-Ký chép: hồi xưa, chưa có quận huyện, thì Lạc-điền tuỳ theo thủy-triều lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng ấy gọi là Lạc-Dân, người cai-quản dân gọi là Lạc-Vương, người phó là Lạc-Tướng, đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu. Vua nước Thục, thường sai con đem ba vạn binh, đi chinh phục các Lạc-Tướng, nhân đó cử giữ đất Lạc mà tự xưng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cổ Tích – An nam chỉ lược Cổ Tích – An nam chỉ lượcViệt-Vương-Thành, tục gọi là thành Khả-Lũ, có một cái ao cổ, Quốc-vơngmỗi năm lấy ngọc châu, dùng nước ao ấy rửa thì sắc ngọc tươi đẹp. Giao-Châu Ngoại-Vực-Ký chép: hồi xưa, chưa có quận huyện, thì Lạc-điền tuỳtheo thủy-triều lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng ấy gọi là Lạc-Dân,người cai-quản dân gọi là Lạc-Vương, người phó là Lạc-Tướng, đều có ấnbằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu. Vua nước Thục, thường sai conđem ba vạn binh, đi chinh phục các Lạc-Tướng, nhân đó cử giữ đất Lạc màtự xưng là An-Dương-Vương. Triệu-Đà cử binh sang đánh. Lúc ấy có một vịthần tên là Cao-Thông xuống giúp An-Dương-Vương, làm ra cái nỏ thần,bắn một phát giết được muôn người.Triệu Đà biết địch không lại với An-Dương-Vương, nhân đó trú lại huyệnVõ-Ninh, khiến Thái-Tử Thủy làm chước tá hàng để tính kế về sau.Lúc Cảo-Thông đi, nói với vua An-Dương-Vương rằng: Hễ giữ được cái nỏcủa ta, thì còn nước, không giữ được thì mất nước.An-Dương-Vương có con gái tên là Mỵ-Châu, thấy Thái-Tử Thủy lấy làmđẹp lòng, rồi hai người lấy nhau. Mỵ-Châu lấy cái nỏ thần cho Thái-TửThủy xem, Thủy xem rồi lấy trộm cái lẩy nỏ mà đổi đi. Về sau Triệu-Đà kéoquân tới đánh thì An-Dương-Vương bại trận, cầm cái sừng tê vẹt được nướcvào biển đi trốn, nên Triệu-Đà chiếm cả đất của An-Dương-Vương. Nay ởhuyện Bình-Địa 5, dấu tích cung điện và thành trì của An-Dương-Vươnghãy còn.Lưu-Chiêu nói: Giao-Chỉ tức là nước An-Dương. Mã-Phục-Ba đời Hán dẹpyên giặc ở Giao-Chỉ, rồi dựng trụ đồng để làm giới hạn cho nhà Hán. Đờinhà Đường, Mã-Tống làm chức An-nam đô-hộ, lại dựng hai cái trụ đồng, vìTống là con cháu của Phục-Ba. Xưa có truyền lại rằng: ở nơi động Cổ-Sum,tại Khâm- Châu có cái cột đồng của Mã-Viện và lời thề rằng: Hễ cái trụđồng nầy gãy, thì nước Giao-Chỉ tiêu-diệt, vì thế, người Giao-Châu, mỗikhi đi ngang qua đều lấy đá, ngói, ném vào dưới chân cột đồng, nênchẳngbao lâu, nơi ấy hóa thành gò.Đổ-Phủ có câu thơ rằng: Vũ lai đồng trụ bắc, ý tẩy Phục-Ba quân nghĩa là:mưa phía Bắc đồng trụ, muốn rửa quân Phục-Ba.Ở cương-giới nước Chiêm-Thành cũng có cột đồng. Mạnh-Hạo-Nhiên cócâu thi: Đồng trụ Nhật-Nam đoan, nghĩa là cột đồng đứng đầu đất Nhật-Nam.Sách Cửu-Vực-Chí nói: cái giếng tại Giao-Châu không phải người đào.Mã-Viện khi đã dẹp yên Giao-Chỉ, có làm trâu bò, lọc rượu để đãi quân-sĩ,trong lúc yến tiệc, Viện thong thả nói với liêu thuộc rằng: Người em họ củata tên là Thiếu-Du thường hay thương tôi khẳng khái có chí lớn và nói: kẻsĩ sinh ở đời, miễn sao vừa đủ ăn mặc, đi cái xe tầm thường, cỡi con ngựaxấu xí, làm chức lại thuộc trong quận, giữ phần mộ của tổ-tiên, làng xómcho là người hiền-lành, như vậy thì đủ rồi. Còn như ham muốn cho dư dũ,thì chỉ là tự mình làm khổ cho mình đó thôi. Hồi ta ở giữa Lãng-Bạc vàTây-Lý, chưa diệt được giặc, dưới thì nước lụt, trên thì khói mù, khí độchừng hực, xem lên thấy diều bay là là xuống nước, nhớ lại lời nói bình thờicủa Thiếu-Du, ta tiếc không làm sao được như vậy.Uy-Vũ-Miếu: Tô-Đông-Pha chép rằng: nhà Hán có hai ông Phục-Ba đốivới dân Lĩnh-Nam đều có công-đức. Ông Phục-Ba trước là Bì-Ly Lộ-Hầu,ông Phục-Ba sau là Tân-Tức Mã-Hầu. Nước Nam-Việt từ đời Tam-Đại trởxuống, không đời nào dẹp yên cả. Đời Tần (246-207 trước công nguyên),tuy có đặt quan-chức cai-trị, song rồi trở lại tình trạng man-di. Bì-ly mới diệtđược nước ấy và chia làm chín quận.Nhưng đến đời Đông-Hán, lại có người con gái là Trưng-Trắc, khởi binhrung động hơn sáu mươi thành. Đương thời vua Thế-Tổ mới dẹp yên thiênhạ, thấy dân đã mõi mệt và chán việc dụng binh, bèn đóng cửa Ngọc-Quantừ tạ Tây-Vực. Phương chi Nam-Việt là chỗ hoang viễn, không đáng phiền-lụy đến quân đội nhà vua, nếu không phải Tân-Tức (hầu) chịu khó đánh dẹpthì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ. Do đấy hai Phục-Bađáng được miếu thờ tại Lĩnh-Nam.Ở trên bể có nhà thờ Phục-Ba, trong niên-hiệu Nguyên-Phong (1078-1085),có lời chiếu chỉ của vua (Thần-Tông nhà Tống), phong làm Trung-Hiển-Vương. Hễ có ghe thuyền qua biển đều tới chỗ ấy mà bói, khi nào quẻ bóitốt, nói đi được, mới đi, hễ quẻ xấu thì thôi, sự linh ứng khiến người ta phảitin, đúng đắn như đo-lường, cân chỉ thăng bằng, không hề sai chạy.Than-ôi! không phải là người có đức cao dày, thì đâu được như thế? Tôinhân có tội bị đày qua Đàm-Nhĩ ba năm, nay lại trở về bể Bắc, qua lại đềugặp gió xuôi, không lấy gì đền đáp ơn thần, bèn lập bia và làm bài minh nhưsau:Sóng gió khôn lường nỗi hiểm nguy,Cá rồng lặng lẽ dữ hơn chi,Tin cậy hai ông đã phù trì,Nước sâu muôn sải thuyền tỉ-ti.Từ đây qua Nam cởi lòng nghi,Vỗ về lương tâm song suốt đi,Từ đây về Bắc thẳng mình mi.Lúc đạt lúc cùng cứ giữ nghi;Sống là anh-kiệt, thác hùng uy,Thần tuy không nói, ý mình suy.Xung-Thiên-Miếu: Tại làng Phù-Đổng, hồi xưa trong nước rối loạn, chợtthấy một người có uy có đức, dân đều về theo, ngườ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: