Cói Cói chiếu, cói hoa vàng, lác, lác nước
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 197.99 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Công dụng: Thân cói đã được dùng từ rất lâu đời để bện dây, dệt chiếu, dệt thảm, túi và nhiều hàng mỹ nghệ khác. Loại thân cói ngắn không đan lát được (bổi), có thể dùng lợp nhà, làm chất đốt hay nguyên liệu chế biến giấy cao cấp. Tế bào sợi cói có chiều dài 1,8(1-4)µm, và rộng trung bình 12(825)µm; chúng thường hẹp, vách dày và nhọn đều. Ở Việt Nam, cói còn được dùng làm thuốc. Bộ phận dùng là thân rễ hay thân ngầm. Do có vị ngọt, hơi the, mùi thơm, tính mát nên...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cói Cói chiếu, cói hoa vàng, lác, lác nước CóiCói chiếu, cói hoa vàng, lác, lác nước Công dụng: Thân cói đã được dùng từ rất lâu đời để bện dây, dệt chiếu, dệtthảm, túi và nhiều hàng mỹ nghệ khác. Loại thân cói ngắn không đan látđược (bổi), có thể dùng lợp nhà, làm chất đốt hay nguyên liệu chế biến giấycao cấp. Tế bào sợi cói có chiều dài 1,8(1-4)µm, và rộng trung bình 12(8-25)µm; chúng thường hẹp, vách dày và nhọn đều. Ở Việt Nam, cói còn đượcdùng làm thuốc. Bộ phận dùng là thân rễ hay thân ngầm. Do có vị ngọt, hơithe, mùi thơm, tính mát nên thân ngầm được dùng làm thuốc lợi tiểu, tiêuviêm, thông huyết mạch. Theo các tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam, thânngầm ở cói chứa 3,1% tanin; 0,7% flavonoid; 0,5% tinh dầu và 0,5%alkaloid. Theo Đỗ Tất Lợi (1997) bài thuốc có củ cói dùng chữa trẻ em gầyyếu như sau: Củ cói sao vàng (40g), vỏ chuối tiêu chín còn tươi (240g), bộtthịt cóc 40g. Sấy khô và tán nhỏ củ cói, vỏ chuối thành bột; trộn đều với bộtthịt cóc, thêm kẹo mạch nha vào làm thành viên. Mỗi viên 4g, ngày cho ăn2-4 viên, chia làm 2 lần. Hình thái: Cây thảo nhiều năm, thân khí sinh mọc thành cụm, với thân ngầmcứng, mập, bò lan trong đất, thường được gọi là “củ”; thân ngầm có mùithơm, vị cay, hơi đắng, vỏ ngoài màu đen, thịt màu trắng. Thường có 5-6thân khí sinh mọc từ thân ngầm, mọc đứng, cứng, 3 cạnh lõm, màu xanhbóng, cao trung bình 1,5m; có cây đạt 1,7-2,0m; đường kính 12-15mm;thường chỉ mang lá ở gốc. Lá mọc thành 3 dãy, hẹp hình đường, dạng lá cỏ,ít khi có hình lưỡi mác hay hình bầu dục, dài bằng nửa thân, rộng khoảng 5-10(-18)mm, và có bẹ dài; các lá ở gốc thường tiêu giảm thành các bẹ hayvẩy, bao phủ thân ngầm và gốc thân khí sinh. Cụm hoa mọc ở đỉnh, dài 10-12cm, mọc xoè rộng, với đường kínhkhoảng 15cm, màu xanh vàng, có mút thơm, với 3-10 nhánh, mỗi nhánh dài3-10cm; mang 4-10 bông nhỏ. Gốc cụm hoa có 3-4 lá bắc tổng bao rộng 8-15mm, dài 30cm, hơn chiều dài cụm hoa. Các bông nhỏ hơi bị ép, dài 15-22mm, mang 16-20(-40) hoa. Bao hoa dạng vảy khô chất giấy, hình trứngđến hình bầu dục, xếp thành 2 dãy, trong đó 2 vảy lớn ở gốc trống (khôngmang hoa); hoa lưỡng tính; những hoa trên cùng của bông là hoa đực hay bấtthụ; Nhị đục 1-3, vòi nằm trên bao, đầu chia 2-3 núm. Quả bế màu nâu đen,không cuống hay có cuống ngắn, hình thấu kính 3 cạnh (2x0,5mm), đầumang 3 vòi nhuỵ tồn tại. Phân bố: - Việt Nam: Cây mọc hoang và được trồng ở các vùng ven biển ViệtNam. Tập trung nhất ở 3 tỉnh thuộc Đồng Bằng sông Hồng và 1 tỉnh thuộcBắc Trung Bộ (Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và Thanh Hoá). Hiện nay,cói được trồng nhiều ở các huyện ven biển như: Huyện Hưng Hà, Tiền Hải(Thái Bình), Nghĩa Hưng, Xuân Thuỷ, Giao Thuỷ và Hải Hậu (Nam Định),Huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và huyện Nga Sơn (Thanh Hoá). Riêng huyệnNga Sơn có 22 xã thì 6 xã ven biển có nghề trồng cói chuyên canh và 2 xãbán chuyên canh. - Thế giới: Cói là loài có nguồn gốc từ vùng Đông Nam Á, nhưnghiện nay vùng phân bố đã được mở rộng, phía tây tới IRắc, Ấn Độ, phía Bắctới Nam Trung Quốc; phía nam tới Australia và Polynesia. Cói cũng đượcnhập vào trồng ở Brazil để làm nguyên liệu đan lát. Đặc điểm sinh học: Cây cói mọc ở vùng đầm lầy ven biển, có ảnh hưởng của thuỷ triềuhay không. Cây tập trung nhiều ở vùng nước mặn hay lợ (đầm lầy của sông,bãi bùn ven biển); thường mọc thành các dải cói dày đặc, thuần loại hoặcxen với một số loài thuỷ sinh khác như: sậy (Phragmites karka), cói quămbông tròn (Fimbristyis umbellata Vahl) và một số loài khác thuộc họ Cói.Cây chịu được nước mặn do thuỷ triều lên xuống hàng ngày, nước lợ (haygọi là nước đôi) Và cả nước ngọt sau khi quai đê lấn biển. Cói ưa đất nhiềuphù sa sét, màu gần gà. Cây sinh trưởng, phát triển hàng năm. Nếu khôngthu hoạch, cây cũng ra hoa rồi chết toàn bộ phận thân khí sinh. Năm sau, từthân ngầm lại xuất hiện các chồi và mọc thành cây mới. Trong bụi, nhữngthân khí sinh mọc từ đầu mùa, chưa kịp thu hoạch cũng sẽ bị chết 1/3 -1/2phần thân phía ngọn. Khi thu hoạch cần rũ bỏ loại thân đó (dân địa phươnggọi là bổi), phơi khô để lợp nhà hay dùng đun nấu. Trong điều kiện tự nhiên,cói thường mọc với sậy nên thân vươn cao và có kích thước lớn hơn so vớicói trồng thuần loại. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cói Cói chiếu, cói hoa vàng, lác, lác nước CóiCói chiếu, cói hoa vàng, lác, lác nước Công dụng: Thân cói đã được dùng từ rất lâu đời để bện dây, dệt chiếu, dệtthảm, túi và nhiều hàng mỹ nghệ khác. Loại thân cói ngắn không đan látđược (bổi), có thể dùng lợp nhà, làm chất đốt hay nguyên liệu chế biến giấycao cấp. Tế bào sợi cói có chiều dài 1,8(1-4)µm, và rộng trung bình 12(8-25)µm; chúng thường hẹp, vách dày và nhọn đều. Ở Việt Nam, cói còn đượcdùng làm thuốc. Bộ phận dùng là thân rễ hay thân ngầm. Do có vị ngọt, hơithe, mùi thơm, tính mát nên thân ngầm được dùng làm thuốc lợi tiểu, tiêuviêm, thông huyết mạch. Theo các tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam, thânngầm ở cói chứa 3,1% tanin; 0,7% flavonoid; 0,5% tinh dầu và 0,5%alkaloid. Theo Đỗ Tất Lợi (1997) bài thuốc có củ cói dùng chữa trẻ em gầyyếu như sau: Củ cói sao vàng (40g), vỏ chuối tiêu chín còn tươi (240g), bộtthịt cóc 40g. Sấy khô và tán nhỏ củ cói, vỏ chuối thành bột; trộn đều với bộtthịt cóc, thêm kẹo mạch nha vào làm thành viên. Mỗi viên 4g, ngày cho ăn2-4 viên, chia làm 2 lần. Hình thái: Cây thảo nhiều năm, thân khí sinh mọc thành cụm, với thân ngầmcứng, mập, bò lan trong đất, thường được gọi là “củ”; thân ngầm có mùithơm, vị cay, hơi đắng, vỏ ngoài màu đen, thịt màu trắng. Thường có 5-6thân khí sinh mọc từ thân ngầm, mọc đứng, cứng, 3 cạnh lõm, màu xanhbóng, cao trung bình 1,5m; có cây đạt 1,7-2,0m; đường kính 12-15mm;thường chỉ mang lá ở gốc. Lá mọc thành 3 dãy, hẹp hình đường, dạng lá cỏ,ít khi có hình lưỡi mác hay hình bầu dục, dài bằng nửa thân, rộng khoảng 5-10(-18)mm, và có bẹ dài; các lá ở gốc thường tiêu giảm thành các bẹ hayvẩy, bao phủ thân ngầm và gốc thân khí sinh. Cụm hoa mọc ở đỉnh, dài 10-12cm, mọc xoè rộng, với đường kínhkhoảng 15cm, màu xanh vàng, có mút thơm, với 3-10 nhánh, mỗi nhánh dài3-10cm; mang 4-10 bông nhỏ. Gốc cụm hoa có 3-4 lá bắc tổng bao rộng 8-15mm, dài 30cm, hơn chiều dài cụm hoa. Các bông nhỏ hơi bị ép, dài 15-22mm, mang 16-20(-40) hoa. Bao hoa dạng vảy khô chất giấy, hình trứngđến hình bầu dục, xếp thành 2 dãy, trong đó 2 vảy lớn ở gốc trống (khôngmang hoa); hoa lưỡng tính; những hoa trên cùng của bông là hoa đực hay bấtthụ; Nhị đục 1-3, vòi nằm trên bao, đầu chia 2-3 núm. Quả bế màu nâu đen,không cuống hay có cuống ngắn, hình thấu kính 3 cạnh (2x0,5mm), đầumang 3 vòi nhuỵ tồn tại. Phân bố: - Việt Nam: Cây mọc hoang và được trồng ở các vùng ven biển ViệtNam. Tập trung nhất ở 3 tỉnh thuộc Đồng Bằng sông Hồng và 1 tỉnh thuộcBắc Trung Bộ (Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và Thanh Hoá). Hiện nay,cói được trồng nhiều ở các huyện ven biển như: Huyện Hưng Hà, Tiền Hải(Thái Bình), Nghĩa Hưng, Xuân Thuỷ, Giao Thuỷ và Hải Hậu (Nam Định),Huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và huyện Nga Sơn (Thanh Hoá). Riêng huyệnNga Sơn có 22 xã thì 6 xã ven biển có nghề trồng cói chuyên canh và 2 xãbán chuyên canh. - Thế giới: Cói là loài có nguồn gốc từ vùng Đông Nam Á, nhưnghiện nay vùng phân bố đã được mở rộng, phía tây tới IRắc, Ấn Độ, phía Bắctới Nam Trung Quốc; phía nam tới Australia và Polynesia. Cói cũng đượcnhập vào trồng ở Brazil để làm nguyên liệu đan lát. Đặc điểm sinh học: Cây cói mọc ở vùng đầm lầy ven biển, có ảnh hưởng của thuỷ triềuhay không. Cây tập trung nhiều ở vùng nước mặn hay lợ (đầm lầy của sông,bãi bùn ven biển); thường mọc thành các dải cói dày đặc, thuần loại hoặcxen với một số loài thuỷ sinh khác như: sậy (Phragmites karka), cói quămbông tròn (Fimbristyis umbellata Vahl) và một số loài khác thuộc họ Cói.Cây chịu được nước mặn do thuỷ triều lên xuống hàng ngày, nước lợ (haygọi là nước đôi) Và cả nước ngọt sau khi quai đê lấn biển. Cói ưa đất nhiềuphù sa sét, màu gần gà. Cây sinh trưởng, phát triển hàng năm. Nếu khôngthu hoạch, cây cũng ra hoa rồi chết toàn bộ phận thân khí sinh. Năm sau, từthân ngầm lại xuất hiện các chồi và mọc thành cây mới. Trong bụi, nhữngthân khí sinh mọc từ đầu mùa, chưa kịp thu hoạch cũng sẽ bị chết 1/3 -1/2phần thân phía ngọn. Khi thu hoạch cần rũ bỏ loại thân đó (dân địa phươnggọi là bổi), phơi khô để lợp nhà hay dùng đun nấu. Trong điều kiện tự nhiên,cói thường mọc với sậy nên thân vươn cao và có kích thước lớn hơn so vớicói trồng thuần loại. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
cói chiếu giống cây lâm nghiệp tài liệu lâm nghiệp đặc điểm cây lâm nghiệp công dụng cây lâm nghGợi ý tài liệu liên quan:
-
Nghiên cứu sản xuất ván dăm sử dụng nguyên liệu gỗ cây hông và keo PMDI
10 trang 107 0 0 -
8 trang 95 0 0
-
9 trang 86 0 0
-
Giáo trình QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI part 3
11 trang 54 0 0 -
GIÁO TRÌNH ĐO ĐẠC LÂM NGHIỆP PHẦN 2
13 trang 48 0 0 -
Giáo trình đo đạc lâm nghiệp - ThS. Nguyễn Thanh Tiến
214 trang 45 0 0 -
GIÁO TRÌNH QUẢN LÝ ĐẤT LÂM NGHIỆP part 10
6 trang 42 0 0 -
Cẩm nang ngành lâm nghiệp-Chương 15
76 trang 36 0 0 -
Giáo trình : Khoa học Trồng và chăm sóc rừng part 3
9 trang 34 0 0 -
Giáo trình QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI part 10
11 trang 33 0 0