Danh mục

Đa hình thái đơn gen ADH1C trong ung thư tế bào gan nguyên phát

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 151.10 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mục tiêu nghiên cứu của bài viết nhằm xác định tỷ lệ kiểu gen và alen của gen ADH1C trên bệnh nhân ung thư gan nguyên phát. Đa hình ADH1C được xác định bằng kỹ thuật PCR-RFLP (PCR-Restriction fragment length polymorphism).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đa hình thái đơn gen ADH1C trong ung thư tế bào gan nguyên phát TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ĐA HÌNH THÁI ĐƠN GEN ADH1C TRONG UNG THƯ TẾ BÀO GAN NGUYÊN PHÁT Uông Thị Thu Hương1, Trần Huy Thịnh1, Trần Vân Khánh1, Nguyễn Thanh Bình1, Vũ Trường Khanh2 1 Trường Đại Học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Bạch Mai Enzyme có liên quan đến chuyển hóa rượu là alcohol dehydrogenase (ADH). ADH có nhiều isozyme được mã hóa bởi nhiều gen khác nhau. Các alen ADH1C mã hóa cho các enzyme ADH có hoạt tính khác nhau và kết quả là tốc độ phản ứng từ rượu chuyển thành acetaldehyde sẽ khác nhau. Alen ADH1C*1 của gen ADH1C mã hóa cho enzym có khả năng tạo nồng độ acetaldehyde rất cao. Hơn nữa, có mối liên quan giữa alen ADH1C*1 và một số loại ung thư có liên quan đến sử dụng rượu hiện vẫn còn đang bàn cãi. Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu: Xác định tỷ lệ kiểu gen và alen của gen ADH1C trên bệnh nhân ung thư gan nguyên phát. Đa hình ADH1C được xác định bằng kỹ thuật PCR-RFLP (PCR-Restriction fragment length polymorphism). Kết quả tỉ lệ kiểu gen ADH1C*1/*1, ADH1C*1/*2, ADH1C*2/*2 của nhóm ung thư tế bào gan nguyên phát là 90%, 8,0%, 2,0% và nhóm chứng là 79,3%, 20,0%,0,7%. Kiểu gen ADH1C*1/*1 và Alen ADH1C*1 trong nhóm bệnh nhân ung thư tế bào gan nguyên phát cao hơn trong nhóm chứng với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với OR 2,34 (CI, 1,2 - 4,55), 1,87 (1,02 - 3,41). Bước đầu khẳng định kiểu gen ADH1C*1/*1 và Alen ADH1C*1 là yếu tố nguy cơ độc lập với ung thư gan nguyên phát ở bệnh nhân có sử dụng rượu. Từ khóa: gen ADH1C, đa hình kiểu gen, ung thư gan tế bào gan nguyên phát I. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư gan nguyên phát là một trong những bệnh lý ác tính phổ biến nhất trên thế giới, bệnh thường được phát hiện muộn, tiên lượng rất xấu, tỷ lệ tử vong cao, thời gian sống của người bệnh kể từ thời điểm phát hiện bệnh ngắn [1; 2]. Nghiện rượu mạn tính là nguyên nhân chính gây ung thư gan [3; 4]. Một vài nghiên cứu đã chỉ ra cùng lượng rượu tiêu thụ nhưng nguy cơ ung thư là khác nhau giữa mỗi cá thể, vậy ngoài yếu tố rượu tác động gián tiếp gây ung thư thì yếu tố di truyền đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các loại hình ung thư [5; 6]. Gen ADH1C có các đa hình thái đơn (SNP) tạo ra các isoenĐịa chỉ liên hệ: Trần Huy Thịnh, Bộ môn Hóa sinh, Trường Đại học Y Hà Nội Email: tranhuythinh@hmu.edu.vn zym có thuộc tính động học khác nhau. Đa hình thái của gen mã hóa cho các enzym ADH1C làm cho các enzym có hoạt tính thay đổi nên nồng độ acetaldehyde (AA) tạo ra khác nhau. Chất AA là chất trung gian được tạo ra trong quá trình chuyển hóa rượu, đây là chất độc và được chứng minh là chất gây ung thư [5; 7]. Đã có nhiều nghiên cứu về các đa hình kiểu gen ADH1C trên các loại hình ung thư khác nhau, được thực hiện trên thế giới [8 - 10]. Tại Việt Nam, nghiên cứu đa hình thái gen ADH1C trên bệnh nhân ung thư gan chưa được tìm hiều một cách đồng bộ và bài bản. Vì vậy, nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu: Xác định tỷ lệ kiểu gen và alen của gen ADH1C trên bệnh nhân ung thư gan nguyên phát. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Ngày nhận: 26/9/2017 Ngày được chấp thuận: 26/11/2017 TCNCYH 109 (4) - 2017 1. Đối tượng 1 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 150 bệnh nhân được chẩn đoán xác định và được theo dõi điều trị ung thư gan nguyên phát tại Bệnh viện K Trung ương từ tháng 1/2014 đến tháng 9/2014. 150 người mắc một số bệnh mạn tính khám tại phòng khám Nội tại Bệnh viện Xanh của bệnh nhân ung thư tế bào gan nguyên phát và người lành đối chứng. - Kiểm tra độ tinh sạch và đo nồng độ của DNA được tách chiết bằng phương pháp đo quang trên máy Nanodrop, dựa vào tỷ lệ A260nm/A280nm = 1,8 ÷ 2,0. Pôn Hà Nội. Đối tượng này được lựa chọn có sử dụng rượu được khám kết luận không mắc ung thư gan nguyên phát hay bất kỳ ung thư nào khác, tình nguyện tham gia nghiên cứu, được phỏng vấn và lấy mẫu cùng thời điểm thực hiện nghiên cứu. Các đối tượng nghiên cứu đều được khai thác tiền sử sử dụng rượu. Phương pháp đo lượng rượu tiêu thụ là hỏi trực tiếp bằng bảng câu hỏi QF [11]. 2.3. Kỹ thuật PCR-RFLP (PCR- Restriction Fragment Length Polymorphism) Khuyếch đại đoạn gen ADH1C bằng máy PCR với cặp mồi đặc hiệu. Mồi xuôi: ADH3 ex8F: AAT AAT TAT TTT TCA GGC TTT AAG AGT AAA TAT TCT GT. Mồi ngược: ADH3 ex8R: AAT CTA CCT CTT TCC AGA GC. Phản ứng PCR được tiến hành với thể tích Dựa vào số lần sử dụng rượu trong tháng, 20μl gồm: 10 μl Taq polymerase, 1μl mồi xuôi, thể tích cốc sử dụng, số gram rượu quy đổi 1μl mồi ngược, 2μl DNA và 6μl H2O. Chu trình của từng loại rượu sẽ tính được lượng rượu nhiệt của phản ứng PCR: [94oC/30 giây, tiêu thụ trong tháng và theo ngày. 54oC/30 giây, 72oC/30 giây] 37 chu kỳ. Bảo Mức độ tiêu thụ rượu được phân loại theo quản mẫu ở 15oC. hàm lượng tiêu thụ trong ngày: uống ít (nam ≤ Sản phẩm PCR được điện di trên gel 40g, nữ ≤ 20g), uống vừa (nam 41 - 60g, nữ agarose 3% kiểm tra, sau đó được tiến hành 21 - 40g), nghiện rượu (nam ≥ 61g, nữ ≥ 41g). giải trình tự theo quy trình thường quy. Kết Nghiên cứu đ ...

Tài liệu được xem nhiều: