Danh mục

Đánh giá hoạt động giáo dục sức khỏe của nhân viên y tế đối với người bệnh nội trú ra viện tại Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang trong 6 tháng đầu năm 2020

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 412.29 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (10 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết trình bày đánh giá hoạt động GDSK tại Bệnh viện từ đó tham mưu và có hành động hợp lý giúp nâng cao hiệu quả việc GDSK trong Bệnh viện ngày càng làm tăng sự HLNB và chất lượng của Bệnh viện.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá hoạt động giáo dục sức khỏe của nhân viên y tế đối với người bệnh nội trú ra viện tại Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang trong 6 tháng đầu năm 2020 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ ĐỐI VỚI NGƯỜI BỆNH NỘI TRÚ RA VIỆN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC TỈNH AN GIANG TRONG 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2020 Nguyễn Thanh Bình; Nguyễn Như Phượng Lý Thuyên Trúc; Trần Huỳnh Ngọc TÓM TẮT: Đặt vấn đề: Giáo dục sức khỏe (GDSK) là quá trình tác động nhằm thay đổi kiến thức, thái độ và thực hành của con người, phát triển thực hành lành mạnh mang lại tình trạng sức khỏe tốt nhất có thể cho con ngườ[1]. GDSK cho người bệnh được coi là một chức năng thiết yếu của Bệnh viện mà nhiệm vụ chính là Nhân viên Y tế (NVYT) trong Bệnh viện.[3] Vì vậy NVYT phải đặc biệt quan tâm vì là yếu tố góp phần nâng cao sự Hài lòng người bệnh (HLNB), giúp người bệnh an tâm trong việc tham gia hợp tác điều trị tại Bệnh viện và quan trọng là giúp người bệnh và thân nhân người bệnh nhận biết được những dấu hiệu bất thường, kịp thời báo NVYT. Vì vậy chúng tôi nghiên cứu về chủ đề này để đánh giá hoạt động GDSK tại Bệnh viện từ đó tham mưu và có hành động hợp lý giúp nâng cao hiệu quả việc GDSK trong Bệnh viện ngày càng làm tăng sự HLNB và chất lượng của Bệnh viện. Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu chung: Đánh giá hoạt động GDSK của NVYT đối với người bệnh nội trú tại Bệnh viện Đa khoa Khu vực tỉnh An Giang (BVĐKKVTAG) 6 tháng đầu năm 2020. Mục tiêu cụ thể:  Yếu tố giới tính liên quan đến đánh giá GDSK của người bệnh.  Yếu tố tuổi liên quan đến đánh giá GDSK của người bệnh.  Yếu tố sử dụng BHYT liên quan đến đánh giá GDSK của người bệnh. Kết quả và bàn luận: Đặc điểm mẫu nghiên cứu: Trong 573 mẫu nghiên cứu (N=573) nhận thấy: nữ chiếm tỷ lệ 54,5% và nam 45,5%; nhóm tuổi 19-45 chiếm 55,1% và trên 45 chiếm 44,9%; sử dụng BHYT 89,2 % và không sử dụng BHYT 10,8%; tỷ lệ mẫu nghiên cứu tại các khoa: Cấp cứu 6,8%, Ngoại Tổng hợp 9,2%, Ngoại Chấn thương – Bỏng 9,8%, Nội Tổng hợp 15,7%, Nội Tim mạch-Lão học 8,0%, Sản 10,8%, Nhi 9,9%, Nhiễm 7,2%, Lao 5,9%, Mắt 6,8%, Răng Hàm Mặt 4,9%, Tai Mũi Họng 4,9%. Hoạt động GDSK bệnh viện : Tỷ lệ GDSK được người bệnh đánh giá tốt nhất là khoa Nội Tổng hợp (tỷ lệ trung bình 87.8%) , các khoa có tỷ lệ cao kế tiếp là khoa Ngoại Tổng hợp (86.1%), khoa Sản (85.9%), khoa Nhiễm (85.9%). Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 279 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Liên quan giữa yếu tố giới tính với hoạt động GDSK: Không có sự khác biệt về giới tính trong việc trả lời phiếu điều tra lên hoạt động “NVYT cho biết hướng điều trị”, “NVYT cho biết tình trạng bệnh”, “NVYT HD sử dụng thuốc”, “NVYT HD vận động, nghỉ ngơi”, “NVYT HD những dấu hiệu bất thường cần báo”, “NVYT HD phòng bệnh và dấu hiệu quay lại khám”. Có sự khác biệt về giới tính trong việc đánh giá của người bệnh về hoạt động “NVYT HD chế độ ăn” (PHội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 bệnh và thân nhân có những hoạt động hợp lý trong việc sử dụng thuốc, ăn uống, vận động, phòng bệnh, nghỉ ngơi,…nâng cao hiệu quả trong điều trị bệnh [2] - GDSK cho người bệnh được coi là một chức năng thiết yếu của Bệnh viện mà nhiệm vụ chính là Nhân viên Y tế (NVYT) trong Bệnh viện.[3] Vì vậy NVYT phải đặc biệt quan tâm vì là yếu tố góp phần nâng cao sự Hài lòng người bệnh (HLNB), giúp người bệnh an tâm trong việc tham gia hợp tác điều trị tại Bệnh viện và quan trọng là giúp người bệnh và thân nhân người bệnh nhận biết được những dấu hiệu bất thường, kịp thời báo NVYT. - Vì vậy chúng tôi nghiên cứu về chủ đề này để đánh giá hoạt động GDSK tại Bệnh viện từ đó tham mưu và có hành động hợp lý giúp nâng cao hiệu quả việc GDSK trong Bệnh viện ngày càng làm tăng sự HLNB và chất lượng của Bệnh viện. II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: 2.1. Mục tiêu chung: Đánh giá hoạt động GDSK của NVYT đối với người bệnh nội trú tại Bệnh viện Đa khoa Khu vực tỉnh An Giang (BVĐKKVTAG) 6 tháng đầu năm 2020. 2.2. Mục tiêu cụ thể: - Yếu tố giới tính liên quan đến đánh giá GDSK của người bệnh?. - Yếu tố tuổi liên quan đến đánh giá GDSK của người bệnh?. - Yếu tố sử dụng BHYT liên quan đến đánh giá GDSK của người bệnh?. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Người bệnh từ 18 tuổi trở lên đang được điều trị nội trú tại BVĐKKVTAG đang được xuất viện trong ngày. * Tiêu chuẩn lựa chọn: - Đồng ý tham gia nhóm nghiên cứu. - Biết đọc chữ - Khoa Nhi: lựa chọn cha (mẹ) tham gia nhóm nghiên cứu. * Tiêu chuẩn loại trừ: - Không đồng ý tham gia nhóm nghiên cứu. - Không biết chữ - Khoa ICU, khoa GMHS. 3.2. Phương pháp nghiên cứu: - Thời gian và địa điểm nghiên cứu: 06 tháng đầu năm 2020 tại BVĐKKVT ...

Tài liệu được xem nhiều: