Bài viết Đánh giá kinh tế về khả năng áp thuế tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng nước giải khát không cồn tại Việt Nam trình bày mục tiêu của nghiên cứu này nhằm xác định khả năng áp thuế tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng nước giải khát không cồn tại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng dựa trên khung phân tích kinh tế học về thuế được Stiglitz (1986) đề xuất,... Mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá kinh tế về khả năng áp thuế tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng nước giải khát không cồn tại Việt Nam
Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ
Tập 50, Phần D (2017): 63-69
DOI:10.22144/jvn.2017.053
ĐÁNH GIÁ KINH TẾ VỀ KHẢ NĂNG ÁP THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT LÊN
MẶT HÀNG NƯỚC GIẢI KHÁT KHÔNG CỒN TẠI VIỆT NAM
Trương Ngọc Phong và Phạm Thành Thái
Khoa Kinh tế, Trường Đại học Nha Trang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 18/02/2017
Ngày nhận bài sửa: 03/04/2017
Ngày duyệt đăng: 28/06/2017
Title:
Economic assessment of the
possibility to apply the excise
tax on non-alcoholic beverage
products in Vietnam
Từ khóa:
Thuế tiêu thụ đặc biệt, Nước
giải khát không cồn, Chính
sách thuế hiệu quả, Việt Nam
Keywords:
Excise tax, non-alcoholic
beverages, effective tax policy,
Vietnam
ABSTRACT
The objective of this research is to determine the ability to apply excise
taxes on the non-alcoholic beverage products in Vietnam. The study used
the quantitative methods with the analytical framework of tax economics
that was proposed by Stiglitz (1986). The research findings showed that
beverage items are strong elasticity of demand on price, and is not a
luxury item. There are two characteristics of three characteristics of an
effective tax policy that will not be achieve if the excise taxes will be
applied on non-alcoholic beverage products by the Government. They
are (i) the economy characteristic and (ii) the justice characteristic.
Morover, the simplicity characteristic of the effective tax policy will be
difficult to achieve when the the tariff rates will be used for each type of
different beverage by the Government. In conclusion, this study proposes
that the excise tax should not be applied on non-alcoholic beverage
product at the present time by the Government.
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm xác định khả năng áp thuế tiêu thụ
đặc biệt lên mặt hàng nước giải khát không cồn tại Việt Nam. Nghiên
cứu sử dụng phương pháp định lượng dựa trên khung phân tích kinh tế
học về thuế được Stiglitz (1986) đề xuất. Kết quả nghiên cứu cho thấy
mặt hàng nước giải khát có cầu co giãn mạnh theo giá, và không phải là
mặt hàng xa xỉ. Trong ba tính chất quan trọng của chính sách thuế hiệu
quả có 2 tính chất mà chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt nếu áp dụng lên
mặt hàng nước giải khát sẽ không đạt được là (i) tính kinh tế và (ii) tính
công bằng; tiêu chí (iii) tính đơn giản sẽ khó đạt được khi Chính phủ sử
dụng các mức thuế suất phân biệt cho từng loại nước giải khát. Vì vậy,
không nên áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng nước giải khát ở
thời điểm hiện tại.
Trích dẫn: Trương Ngọc Phong và Phạm Thành Thái, 2017. Đánh giá kinh tế về khả năng áp thuế tiêu thụ
đặc biệt lên mặt hàng nước giải khát không cồn tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học Trường Đại học
Cần Thơ. 50d: 63-69.
lít, và tốc độ tăng trưởng trung bình 13,48% giai
đoạn 2011 – 2014. Điều kiện khí hậu nóng ẩm, dân
số trẻ là các yếu tố chính khiến nước giải khát trở
thành một thức uống phổ biến ở Việt Nam
(VietinbankSc, 2015).
1 GIỚI THIỆU
Ngành công nghiệp nước giải khát hiện được
xem là ngành kinh doanh hấp dẫn. Tổng doanh thu
tính riêng cho năm 2014 của ngành là 80.320 tỷ
đồng, tổng sản lượng tiêu thụ lên đến khoảng 4,8 tỷ
63
Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ
Tập 50, Phần D (2017): 63-69
Tháng 2 năm 2014, Bộ Tài Chính Việt Nam
đưa nước giải khát có ga không cồn vào danh mục
các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế
suất 10%, và đệ trình Quốc hội xem xét thông qua.
Theo Bộ Tài chính, việc lạm dụng đồ uống có thể
dẫn tới các vấn đề sức khỏe như tăng nguy cơ bị
bệnh béo phì, tiểu đường, sỏi thận, loãng xương,
sâu răng. Dự thảo này vấp phải phản ứng mạnh mẽ
từ phía các nhà sản xuất nước giải khát có ga.
Đồng thời làm tạo nên hai quan điểm đối lập với
nhau. Thứ nhất, lập luận ủng hộ cho rằng nước giải
khát gây ra các vấn đề sức khỏe và cần phải hạn
chế người dân sử dụng. Thứ hai, lập luận phản đối
cho rằng việc áp thuế đối với nước giải khát là một
chính sách thuế không hiệu quả và gây tổn thất cho
toàn nền kinh tế. Mặc dù vậy, trên thế giới có nhiều
nước đang áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc thuế
tiêu dùng đối với các sản phẩm nước giải khát dựa
trên hàm lượng đường trong mỗi sản phẩm như
Hoa Kỳ, Phần Lan, Croatia, Thái Lan, Pháp… Tuy
nhiên, cũng có một số quốc gia từng đánh thuế đối
với sản phẩm này nhưng rồi bãi bỏ hoặc giảm thuế
suất vì những tổn thất kinh tế gây ra quá lớn, như
Ai Cập, Ireland, Đan Mạch.
các đối tượng về mọi mặt như nhau phải chịu thuế
ngang nhau. Ngược lại, tính công bằng dọc đạt
được nếu người càng có khả năng chi trả cao sẽ
phải đóng thuế nhiều hơn. Nói cách khác, tính công
bằng dọc đạt được nếu hàng hóa chịu thuế có cầu
co giãn nhiều theo thu nhập.
Tính đơn giản đòi hỏi hệ thống thuế phải đơn
giản để việc quản lý dễ dàng và không tốn kém.
Chi phí quản lý thu thuế là một vấn đề; thứ nhất,
chi phí trực tiếp là các khoản chi tiêu cho công tác
hành thu, còn chi phí gián tiếp là các khoản mà
người nộp thuế phải gánh chịu (thời gian khai báo
thuế, hoàn thành các biểu mẫu, hay thuê luật
sư,…). Thông thường, một sắc thuế đạt được tính
đơn giản về mặt hành chính nếu doanh thu thuế tạo
ra cao hơn chi phí hành thu để thực hiện chính sách
đó.
2.1.2 Khái quát về thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế tiêu thụ đặc biệt (Excise Tax) hay còn gọi
là thuế phân biệt thường được sử dụng để đánh vào
một mặt hàng mà chính phủ không khuyến khích
người dân sử dụng (hàng xa xỉ hay hàng hóa tội lỗi
- sinful goods), chẳng hạn như thuốc lá, rượu bia,
xe hơi đắt tiền. Hàng hóa được chọn để đánh thuế
thường có một hoặc vài đặc điểm sau: (1) việc tiêu
dùng nó gây ra các ngoại tác tiêu cực; (2) những
sản phẩm có cầu ít co giãn theo giá; (3) hàng hóa
có độ co giãn của cầu theo thu nhập lớn hơn 1; và
(4) hàng hóa mà việc sản xuất và kinh doanh cần
được Chính phủ điều tiết (Mccarten & Stotsky,
1995).
Trước việc rút lại đề xuất đánh thuế lên nước
giải khát có ga không cồn cho thấy sự lúng túng
trong việc r ...