Danh mục

Đào Duy Từ Giai Thoại 3

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 119.12 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đào Duy Từ Giai Thoại 3Bấy giờ chúa Nguyễn là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (16l3- l635) đang có ý định kén chọn nhân tài, để dựng nghiệp lớn, nên khi xem xong bài văn của Đào Duy Từ đã rất tâm đắc, bèn lệnh cho Khám lí Trần Đức Hòa dẫn ngay người con rể vào gặp chúa. Gia đình nhà vợ vội may sắm quần áo, khăn mũ hợp nghi thức để Duy Từ mặc vào chầu cho thật chỉnh tề. Nhưng Duy Từ nhất mực từ chối, viện lẽ rằng mình không dám dùng, vì chưa có...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đào Duy Từ Giai Thoại 3 Đào Duy Từ Giai Thoại 3 Bấy giờ chúa Nguyễn là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (16l3- l635) đang cóý định kén chọn nhân tài, để dựng nghiệp lớn, nên khi xem xong bài văn của ĐàoDuy Từ đã rất tâm đắc, bèn lệnh cho Khám lí Trần Đức Hòa dẫn ngay người conrể vào gặp chúa. Gia đình nhà vợ vội may sắm quần áo, khăn mũ hợp nghi thức để Duy Từ mặcvào chầu cho thật chỉnh tề. Nhưng Duy Từ nhất mực từ chối, viện lẽ rằng mìnhkhông dám dùng, vì chưa có chức tước! Trước buổi tiếp, Sãi Vương muốn thử tư cách Đào Duy Từ, nên chúa mặc yphục xuềnh xoàng, cầm gậy đứng trước cửa, thái độ lơ đãng, như chờ một kẻ hầunào đấy. Từ xa, Đào Duy Từ đã nhìn thấy vẻ thờ ơ của chúa, bèn giả tảng hỏi bố vợ: - Người kia là ai vậy, thưa cha? Trần Đức Hòa sợ hãi, trả lời: - Ấy chết! Sao con dám hỏi vậy? Vương thượng đấy, Người đứng chờ, con maumau đến bái lạy! Duy Từ nghe bố vợ nói, chỉ c ười nhạt rồi quay lại chực không đi nữa. Khám líTrần đi trước, ngoảnh lại thấy con rể bỏ về, sợ khiếp đảm, liền níu l ại quở trách: - Con làm thế này thì tội phạm thượng sẽ trút lên đầu cha cả thôi! Duy Từ đáp: - Thưa cha, vì con thấy chúa đang trong tư thế đi dạo với các cung tần mĩ nữ,chứ không có nghi lễ gì gọi là tiếp đón khách hiền. Nếu con lạy chào tất phạm vàotội khinh vua. Nghe con rể nói vậy, ông bố vợ lại càng thất kinh, cáu kỉnh cầm tay Duy Từ bắttrở lại ngay, để lạy chào chúa, không được để chúa phải chờ. Nhưng Duy Từ vẫndùng dằng không chịu nghe lời. Từ xa, Sãi Vương đã để ý quan sát thấy tất cả, biết Đào Duy Từ là kẻ tài giỏithực, tính khí khái, chứ không giống những bọn tầm thường, chỉ cốt quỵ lụy, đượcra mắt chúa, hòng tiến thân để kiếm chút bổng lộc, chức tước mà thôi. Chúa bènquay vào nội phủ, thay đổi áo quần và bảo thái giám đem áo mũ ban cho Duy Từ,rồi vời vào sảnh đường tiếp kiến. Kể từ buổi đó, Đào Duy Từ được chúa Sãi Vương tin yêu, trọng vọng, tôn làmquân sư, luôn ở cạnh chúa để bàn bạc việc quốc gia trọng sự. Ông được phongchức Tán trị, tước Lộc Khê hầu, nên người đời vẫn quen gọi ông là Lộc Khê.Tài năng được thi thố Năm 1627, chúa Trịnh Đàng Ngoài muốn bắt họ Nguyễn ở Đàng Trong thầnphục, bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương và đòi lễ vậtcống nạp. Chúa Sãi không chịu, nhưng bề ngoài chưa biết xử trí ra sao, bèn hỏi ýkiến Lộc Khê Đào Duy Từ. Theo một số tư liệu, thì chính Duy Từ là người khuyênchúa bước đầu cứ nhận sắc phong, rồi sau sẽ tìm kế đối phó. Ba năm sau, thấy thời cơ thuận lợi, bấy giờ Lộc Khê mới bàn với Sãi Vương,sai thợ làm một chiếc mâm đồng có hai đáy, bỏ sắc vua Lê phong kèm với một tờgiấy có 4 câu chữ Hán vào giữa, rồi hàn kín lại. Trên mâm cho bày nhiều lễ vậthậu hĩnh, rồi cử sứ giả mang ra Thăng Long, để tạ ơn vua Lê, chúa Trịnh. Triều đình Đàng Ngoài nhận được mâm lễ vật tỏ ý ngờ vực, bèn cho khám phábí mật ở phía trong và cuối cùng họ đã phát hiện chiếc mâm có hai đáy. Khi đemđục ra thì thấy có sắc vua phong dạo trước và tờ giấy viết bốn câu chữ Hán sau: Mâu nhi vô dịch Mịch phi kiến tích Ái lạc tâm trường Lực lai tương địch Dịch nghĩa từng câu là: chữ mâu không có dấu phết; chữ mịch bỏ bớt chữkiến; chữ ái để mất chữ tâm và chữ lực đối cùng chữ lai. Thoạt đầu, chúa Trịnh và cả đình thần không ai hiểu bốn câu trên ngụ ý gì. Sauchúa phải cho vời viên quan thông thái nhất triều vào hỏi, thì mới vỡ lẽ rằng, trongchữ Hán, chữ mâu viết không có dấu phết thì thành chữ dư. Chữ mịch mà bỏchữ kiến thì là chữ bất. Chữ ái nếu viết thiếu chữ tâm thì ra chữ thụ vàchữ lực để cạnh chữ lai sẽ là chữ sắc. Gộp cả bốn chữ mới lại thành câu: Dưbất thụ sắc, nghĩa là Ta chẳng chịu phong. Chúa Trịnh thấy họ Nguyễn chối từ, trả lại sắc phong bằng một mẹo kế tài tình,thì vừa tức giận, vừa phục tài, bèn cho dò la và biết được đều do Lộc Khê ĐàoDuy Từ bày đặt ra cả. Chúa tính kế làm sao để lôi kéo Lộc Khê bỏ chúa NguyễnĐàng Trong về với triều đình Lê - Trịnh Đàng Ngoài. Chúa lập mưu sai người mang nhiều vàng bạc bí mật vào biếu Đào Duy Từ,kèm một bức thư riêng để nhắc ông rằng tổ tiên, quê quán vốn ở Đàng Ngoài, nếutrở về sẽ được triều đình trọng vọng, cho giữ chức quan to. Đào Duy Từ đã trả lại quà tặng và viết bài thơ phúc đáp chúa Trịnh như sau: Ba đồng một mớ trầu cay Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không? Bây giờ em đã có chồng Như chim vào lồng như cá cắn câu Cá cắn câu biết đâu mà gỡ Chim vào lồng biết thuở nào ra?... Chúa Trịnh đọc thơ biết khó lòng lôi kéo được họ Đào, nhưng thấy bài thơ chưacó câu kết, ý còn bỏ ngỏ, nên vẫn nuôi hi vọng, bèn cho người đem lễ vật hậu hơn,cầm thư chúa vào gặp Đào Duy Từ lần nữa. Lần này, ông mới viết nốt hai câu kết gửi ra, để trả lời dứt khoát việc mời mọccủa chúa Trịnh. Hai câu đó như sau: Có lòn ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: