Bài viết "Để góp phần vào việc hoạch định chính sách dân số" giới thiệu đến các bạn vài nét về việc hoạch định và thực thi chính sách dân số ở một số nước châu Á, bài học kinh nghiệm cho nước ta, quá độ dân số ở Việt Nam và chính sách dân số,... Với các bạn chuyên ngành Xã hội học thì đây là tài liệu tham khảo hữu ích.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Để góp phần vào việc hoạch định chính sách dân số - Tương LaiXã hội học, số 3 - 1992 ĐỂ GÓP PHẦN VÀO VIỆC HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH DÂN SỐ TƯƠNG LAI I - ĐẶT VẤN ĐỀ Chính sách, bản thân nó phải là một khoa học. Bởi lẽ, một chính sách đúng và có triển vọng thực thi một khi việc hoạch định ra nó không do sự mọng muốn chủ quan mà là phản ánh quy luật vận động khách quan của đối tượng mà chính sách hướng vào. Đối tượng của một chính sách nào cũng không nằm tách riêng, biệt lập với đối tượng của một chính sách khác mà nó quan hệ chằng chịt, gắn bó với nhau. Các quan hệ chính sách nằm trong cơ chế các quan hệ thể hiện tính quy luật của các hoạt động của con người trong xã hội. Nắm được quy luật vận động của đối tượng để đề ra những giải pháp sát đúng nhằm tác động vào quy luật thúc đẩy sự phát triển và loại bỏ những yếu tố cản trở quá trình hướng tới mục tiêu mong muốn, đó là thực chất của việc hoạch định chính sách. Vì thế, để việc hoạch định một chính sách dân số nhằm hướng tới mục tiêu cần đạt tới khi bước vào thế kỷ XXI, việc nắm vững quy luật vận động và phát triển của dân số nói chung và của Việt Nam nói riêng là điều kiện tiên quyết. Quá trình dân số diễn ra không tuân theo sự mong muốn áp đặt của bất cứ một ai. Quy luật vận động của nó, cũng như mọi quy luật khác, đòi hỏi người ta muốn hành động đúng thì phải nhận thức đúng tính khách quan của nó. Đương nhiên, quy luật vận động của dân số không chỉ là một quy luật tự nhiên mặc dù sinh đẻ là một hiện tượng tự nhiên của tạo hóa, mà còn là quy luật xã hội vì nó còn thông qua ý thức và hành động của con người. Tác động đến ý thức và hành động của con người để do đó mà hướng quá trình phát triển của dân số theo mục tiêu có thể đạt được phù hợp với quy luật vận động của nó, đó là thực chất của việc hoạch định chính sách dân số của chúng ta trong thời gian sắp tới. Theo nhóm cố vấn của các chuyên gia về chính sách dân số do ủy ban dân số của Hội đồng kinh tế và xã hội Liên hiệp quốc thành lập thì chính sách dân số là những biện pháp và chương trình được thiết kế nhằm đóng góp vào việc đạt được những mục tiêu kinh tế, xã hội, dân số, chính trị và các mục tiêu tập thể khác thông qua việc tác động đến các biến số dân số quan trọng cụ thể là kích thước và sự tăng trưởng dân số, sự phân bố dân số (trong phạm vi quốc gia và quốc tế) với các đặc trưng dân số của nó. Theo họ, chính sách dân số bao gồm cả những biện pháp và chương trình có khả năng tác động đến những biến số dân số quan trọng cũng như những cái được thiết kế riêng đặc biệt nhằm mục đích đó. Nếu hiểu như vậy thì cũng có thể cho rằng, chính sách dân số bao gồm cả những biện pháp trực tiếp lẫn biện pháp gián tiếp có tác động đến những biến số này. Chính trên nghĩa đó mà người ta bàn đến nội dung của hai khái niệm: chính sách dân số hẹp và chính sách dân số rộng. Chính sách dân số hẹp bao gồm các biện pháp và chương trình nhằm tác động đến quá trình tái tạo dân số (sinh đẻ, tử vong) và quá trình di dân. Đây là những thành phần quan trọng nhất của quá trình biến đổi dân số. Tuy nhiên, giữa hiện tượng sinh đẻ, tử vong và di dân có những khác biệt và bản chất đòi hỏi phải có sự phân hóa trong các biện pháp chính sách nhằm đạt được các mục tiêu dân số. Thứ nhất, quá trình tái tạo tự nhiên dân số (sinh đẻ, tử vong) và di dân là hai dạng vận động dân số khácnhau. Quá trình tái tạo tự nhiên của dân số có thể diễn ra trong cùng một cộng đồng lãnh thổ, là sự vận động bêntrong cộng đồng đó theo thời gian. Trong khi đó di dân là quá trình diễn ra giữa hai cộng đồng lãnh thổ, là sựvận động bên ngoài đối với mỗi cộng đồng này theo không gian. Thứ hai, những sự kiện sinh đẻ, tử vong đơn lẻ mang đặc trưng một lần đối với người trong cuộc, trong khiviệc dii cư có thể ịăp lại. Do đó, số sinh đẻ, tử vong đúng bằng số người trong cuộc trong khi số di cư thườnglớn hơn số người trong cuộc. Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn Xã hội học, số 3 - 1992 Thứ ba, hoạt động tái sinh sản có liên quan trực tiếp đến nhu cầu tái sinh sản (nhu cầu con cái, nhu cầu tiếptục giống nòi...), trong khi đó người ta di dân không phải để thỏa mãn nhu cầu di chuyển mà đó chỉ là phươngtiện để thực hiện các nhu cầu khác, là phương tiện nhằm thay đổi địa vị kinh tế - xã hội của họ Thứ tư, quá trình tái sinh sản mang lại cho con người những đặc trưng dân số hoặc là bất biến (giới tính)hoặc biến đổi tuần tự theo thời gian (tuổi) trong khi di dân có liên quan đến những đặc trưng xã hội rất biếnđổi: một số đặc trưng có thể biến đổi vĩnh viên (nơi ở, nơi làm việc, một số khác chỉ đôi khi mới biến đổi (trìn ...