Danh mục

Đề tài tốt nghiệp cử nhân Điều dưỡng hệ VHVL: Đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn phổi trên người bệnh thở máy và hiệu quả chăm sóc của điều dưỡng viên

Số trang: 36      Loại file: pdf      Dung lượng: 2.80 MB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đề tài “Đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn phổi trên người bệnh thở máy và hiệu quả chăm sóc của điều dưỡng viên” được tiến hành nghiên cứu nhằm hai mục tiêu: Mô tả tình trạng nhiễm khuẩn phổi mắc phải ở người bệnh thở máy tại các khoa lâm sàng bệnh viện Bạch Mai, xác định các yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn phổi trên người bệnh thở máy.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đề tài tốt nghiệp cử nhân Điều dưỡng hệ VHVL: Đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn phổi trên người bệnh thở máy và hiệu quả chăm sóc của điều dưỡng viên ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) hay còn gọi là nhiễm khuẩn mắc phải trong thời gian nằm viện (thường sau 48 giờ), nhiễm khuẩn này không hiện diện trong giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện [9]. Hiện nay, tỷ lệ NKBV có xu hướng tăng lên ở những người bệnh nặng có can thiệp thở máy, đặc biệt bệnh nhân nằm ở các khoa Hồi sức, khoa Cấp cứu, khoa Thần kinh…, đây là một thách thức đối với các bác sỹ và điều dưỡng trực tiếp điều trị, chăm sóc người bệnh. Người bệnh khi vào điều trị tại khoa Hồi sức, Cấp cứu hầu hết trong tình trạng rất nặng, và thường phải can thiệp nhiều thủ thuật cùng lúc vì vậy mặc dù điều dưỡng viên ở khoa đã thực hiện rất tốt, đúng quy trình kỹ thuật khi chăm sóc người bệnh (CSNB) nhưng tỷ lệ nhiễm khuẩn phổi vẫn còn rất cao. Theo thống kê của Trương Anh Thư bệnh viện Bạch Mai 2008, NKBV lên đến 25% và tỉ lệ nhiễm viêm phổi thở máy (VPTM) chiếm cao nhất, tỉ lệ mới mắc cao nhất trong thời gian đầu mới nhập viện là 3%/ngày trong 5 ngày đầu thở máy, tiếp theo là 2% /ngày từ 5 đến 10 ngày, sau đó là 1% /ngày từ 10 ngày trở đi [20]. Thực tế người bệnh nặng có can thiệp thở máy khi nhận thấy bị nhiễm khuẩn bệnh viện (VPTM) làm cho người bệnh nặng lên, kéo dài thời gian điều trị, chi phí cho điều trị tăng lên, tăng tỷ lệ tử vong, ngoài ra còn làm tăng sự kháng thuốc kháng sinh của người bệnh. NKBV hiện nay đã trở thành một thách thức mang tính thời đại và toàn cầu. Hiện nay, tại các khoa Cấp cứu, Khoa Điều trị tích cực ở nhiều bệnh viện đang có chuyển biến thực hiện làm ca để đạt được chăm sóc toàn diện, hy vọng phần nào sẽ làm giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện trong đó có viêm phổi trên người bệnh thở máy. Người bệnh nặng khi thở máy bị NKBV do bội nhiễm phổi khó có biểu hiện các triệu chứng lâm sàng rầm rộ, khó phát hiện bởi họ đang trong tình trạng bệnh nặng (hôn mê). Do vậy, việc phát hiện NKBV ở người bệnh thở máy phải dựa vào các xét nghiệm cận lâm sàng (xét nghiệm máu, cấy đờm, X.Q…) một cách hệ thống để đánh giá, ngăn ngừa, khống chế và tìm nguyên nhân gây ra NKBV nhằm có biện pháp phòng ngừa. 1 Vì vậy đề tài “Đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn phổi trên người bệnh thở máy và hiệu quả chăm sóc của điều dưỡng viên”, được tiến hành nghiên cứu nhằm hai mục tiêu: 1. Mô tả tình trạng nhiễm khuẩn phổi mắc phải ở người bệnh thở máy tại các khoa lâm sàng bệnh viện Bạch Mai. 2. Xác định các yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn phổi trên người bệnh thở máy. 2 Thang Long University Library CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Giải phẫu hệ hô hấp Hệ hô hấp gồm hệ thống dẫn khí và hệ thống trao đổi khí giữa máu và không khí. Hệ thống dẫn khí gồm có: Mũi, hầu, thanh quản, khí quản và phế quản. Hệ thống trao đổi khí là phổi, chứa các phế nang là nơi trao đổi khí giữa máu và không khí. 1.1.1. Mũi Mũi ngoài lồi lên ở giữa mặt, có dạng hình tháp 3 mặt mà mặt nhỏ nhất là 2 lỗ mũi trước, 2 mặt bên nằm ở 2 bên. Mũi trong (ổ mũi) gồm 2 ổ mũi cách nhau bởi vách mũi, thông với bên ngoài qua lỗ mũi trước và thông với hầu ở sau qua lỗ mũi sau. Mỗi ổ mũi có 4 thành: trong, ngoài, trên và dưới. Có nhiều xoang nằm trong các xương lân cận, đổ vào ổ mũi [6]. Niêm mạc mũi lót mặt trong ổ mũi, liên tục với niêm mạc các xoang, niêm mạc hầu. Niêm mạc mũi được chia thành 2 vùng: + Vùng khứu giác niêm mạc có nhiều đầu mút thần kinh khứu giác. + Vùng hô hấp: Niêm mạc có nhiều mạch máu, tuyến niêm mạc và tổ chức bạch huyết có chức năng sưởi ấm, làm ẩm không khí, lọc bớt bụi và sát trùng không khí trước khi vào phổi. Các xoang cạnh mũi Gồm có 4 đôi là: xoang hàm trên, xoang trán, xoang sàng và xoang bướm. Bình thườ ng chúng đều rỗng, thoáng và khô ráo, chứa không khí có nhiệm vụ cộng hưởng âm thanh, làm ẩm niêm mạc mũi, sưởi ấm không khí và làm nhẹ khối xương đầu mặt [16]. 1.1.2. Hầu Là 1 ống cơ-sợi được phủ bởi niêm mạc, dài khoảng 12-14cm, đi từ nền sọ tới đầu trên của thực quản ở ngang mức đốt sống cổ 6. Hầu nằm trước cột sống cổ; nó mở thông ở phía trước vào ổ mũi, ổ miệng và thanh quản, được chia thành 3 phần ứng với các ổ này: phần mũi, phần miệng và phần thanh quản [21]. 3 1.1.3. Thanh quản Cấu tạo: Thanh quản được cấu tạo bởi các sụn nối với nhau bằng các khớp, các màng, các dây chằng và các cơ. Bên trong, thanh quản được phủ bởi niêm mạc liên tục với niêm mạc hầu, niêm mạc khí quản và tạo nên các xoang cộng hưởng âm thanh. Các sụn thanh quản gồm có sụn giáp, sụn nhẫn và sụn nắp thanh môn, sụn phễu, sụn sừng, sụn chêm và sụn thóc. Trong đó sụn chêm và sụn thóc là những sụn phụ, nhỏ [6]. Các cơ của thanh quản: gồm cơ ngoại lai và cơ nội tại Mạch máu và thần kinh: Mạch máu thanh quản được nuôi dưỡng bởi động mạch thanh quản trên là nhánh của động mạch giáp trên và động mạch thanh quản dưới là nhánh của động mạch giáp dưới. Thần kinh: - Vận động: Cơ nhẫn giáp do nhánh ngoài của thần kinh thanh quản trên vận động. Các cơ còn lại do thần kinh thanh quản dưới vận động, nếu liệt sẽ gây mất tiếng. - Cảm giác: Phần trên nếp thanh âm do thần kinh thanh quản trên. Phần dưới nếp thanh âm do thần kinh thanh quản dưới. [16]. 1.1.4. Khí quản Khí quản là một ống dẫn khí hình lăng trụ, nối tiếp từ dưới thanh quản ngang mức đốt sống cổ 6, đi vào ngực, phân chia thành 2 phế quản chính: phải và trái, ở ngang mức đốt sống ngực 6. Hình 1.1. Khí quản 1. Khí quản 2. Phế quản chính 4 Thang Long University Library Cấu tạo Khí quản là một ống cấu tạo bằng lớp sụn, sợi và cơ trơn ở ngoài và được lót gồm 16 - 20 cung sụn hình chữ C, các sụn nối với nhau bằng các dây chằng vòng. Khoảng hở phía sau các sụn được đóng kín bằng các cơ trơn khí quản, tạo nên thành màng. Trong lòng khí quản nơi phân đôi của khí quản nổi gờ lên ở giữa, gọi là cựa khí quản. Nhìn từ trên xuống, cựa khí quản hơi lệch sang bên trái. Liên quan: Khí quản dài 15cm, đường kính khoảng 1,2cm, di động dễ và có 2 phần là phần cổ và phần ngực. Phần cổ nằm trên đường g ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: