Ở những vùng trồng cà phê tại Sơn La, bệnh thán thư (Colleltotrichum sp.) là một trong những bệnh chủ yếu gây hại. Nấm bệnh gây hại trên lá, cành, quả và là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng rụng quả trên cây cà phê. Trong năm 2016-2017, bệnh thường xuyên phát sinh gây hại trên cành và lá, chỉ số bệnh lá từ 1,63-3,96% và ít biến đổi.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Diễn biến và mức độ gây hại của bệnh thán thư (Colletotrichum sp.) gây hại cà phê giống Catimor tại Sơn La, hiệu lực của một số thuốc trừ bệnh ngoài đồng ruộng
TẠP CHÍ KHOA HỌC
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Số 14 (4/2019) tr.36-43
DIỄN BIẾN VÀ MỨC ĐỘ GÂY HẠI CỦA BỆNH THÁN THƯ
(Colletotrichum sp.) GÂY HẠI CÀ PHÊ GIỐNG CATIMOR TẠI SƠN LA,
HIỆU LỰC CỦA MỘT SỐ THUỐC TRỪ BỆNH NGOÀI ĐỒNG RUỘNG
Hoàng Văn Thảnh,1Lê Thị Thảo, 1Phạm Thị Mai
1
2
Phạm Văn Thọ, 3Phạm Thị Thanh Hường
1 2
Trường Đại học Tây Bắc, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Sơn La
3
Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện Thuận Châu
Tóm tắt: Ở những vùng trồng cà phê tại Sơn La, bệnh thán thư (Colleltotrichum sp.) là một trong
những bệnh chủ yếu gây hại. Nấm bệnh gây hại trên lá, cành, quả và là nguyên nhân chính gây ra hiện
tượngrụng quả trên cây cà phê. Trong năm 2016-2017, bệnh thường xuyên phát sinh gây hại trên cành và lá,
chỉ số bệnh lá từ 1,63-3,96% và ít biến đổi. Trên cành, chỉ số bệnh tăng dần từ tháng 4-8, đây là những tháng
có nhiệt độ và ẩm độ phù hợp cho bệnh phát sinh gây hại. Cuối tháng 8 đầu tháng 9, chỉ số bệnh đạt cao nhất
từ 16,67-17,78% và giảm rõ rệt từ cuối tháng 9 trở đi. Quả cà phê bị rụng do bệnh thán thư xuất hiện từ tuần
thứ 6 sau khi hoa đợt cuối nở. Tỷ lệ quả bị rụng chiếm 48,34-52,83%, trong đó tỷ lệ quả rụng do bị bệnh từ
42,63-45,39%. Hiệu lực trừ bệnh thán thư trên cây cà phê của thuốc hóa học thuốc Anvil 5SC cao nhất đạt
77,78%, thuốc Antracol 70 WP cao nhất đạt 79,14 % ở 15 ngày sau phun, chế phẩm CFO cao nhất đạt 72,53%
ở 12 ngày sau phun.
Từ khóa: Bệnh thán thư, cây cà phê, Colletotrichum sp.
1. Mở đầu
Bệnh thán thư (sau đây gọi là bệnh) do nấm Colletotrichum gây ra, là bệnh quan trọng
thứ hai sau bệnh gỉ sắt hại trên cây cà phê. Bệnh làm khô quả, khô cành, cháy lá, tàn lụi hoa và
chết cây. Bệnh gây thành dịch trên cây cà phê ở Ấn Độ vào năm 1928, ở Kenya năm 1960 làm
năng suấtgiảm đến 50%, một số đồn điền giảm đến 75%, chất lượng cũng bị ảnh hưởng làm
nhiều hộ trồng cà phê đã phải chuyển đổi sang cây trồng khác [3]. Bệnh làm rụng 40,12-53,55%
số quả tại vùng trồng cà phê phía Tây Bắc ở Cameroon [1]. Ở Kenya và một số quốc gia
thuộc Đông Phi, bệnh là nguyên nhân gây giảm 50-80% năng suất [7]. Ở Việt Nam, bệnh thán
thư hại cây cà phê đã được điều tra từ 1995-1997 và đã ghi nhận mức độ nhiễm bệnhnặng
nhất là 51,4% trên cây cà phê chè và là nguyên nhân gây rụng quả trước khi chín.
Tỷ lệ bệnh thán thư trên cây từ 4,6-20,4%, tỷ lệ quả bệnh rụng dưới đất là 6%, chưa kể
đến quả rụng do sinh lí là 26%, tỷ lệ cây bị nhiễm bệnh nặng 12%, bệnh đã làm giảm 7% sản
lượng [6]. Tại Nghệ An, tỷ lệ nhiễm bệnh từ 4,8-26%, tỷ lệ cây bị nhiễm bệnh nặng là 11% [3].
Tại Đắk Lắk (Việt Nam), bệnh thán thư phát triển từ tháng 5, tăng nhanh từ tháng 6, đạt đỉnh
cao ở tháng 10. Bệnh xâm nhiễm gây hại dần tăng lên khi ở giai đoạn phát triển quả cho tới
khi quả chín.
Ngày nhận bài: 24/7/2018. Ngày nhận đăng: 23/8/2018
Liên lạc: Hoàng Văn Thảnh, e-mail: hoangthanhtbu@gmail.com
36
Các thuốc hóa học có gốc Benzimidazoles, Triadimefon, Cyproconazole, Hexaconazole
và Propiconazole, Trifoxystrobin, Pyraclostrobin và Azoxystrobin đang được sử dụng rộng rãi
trong phòng trừ bệnh trên thế giới. Ở Sơn La, diện tích trồng cà phê có xu hướng tăng mạnh
vào những năm gần đây với giống trồng chủ yếu là Catimor được đánh giá là mẫn cảm với
bệnh thán thư (Colletotrichum sp.). Theo Chi cục Bảo vệ thực vật Sơn La, một trong những
đối tượng gây hại nghiêm trọng trên cây cà phê tại Sơn La là bệnh thán thư do một số loài của
nấm Colletotrichum gây ra, hàng năm bệnh này làm ảnh hưởng lớn đến năng suất, chất lượng
sản phẩm.
Bài báo này trình bày một số kết quả nghiên cứu diễn biến, tác hại của bệnh thán thư
trên giống cà phê Catimor tại Sơn La và hiệu lực một số thuốc phòng trừ bệnh nhằm góp phần
cho biện pháp quản lý bệnh đạt hiệu quả.
2. Nội dung
2.1. Phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Điều tra diễn biến bệnh thán thư hại cà phê
Chọn vườn cây cà phê 7 năm tuổi, điều tra 3 vườn đại diện cho các vùng trồng cà phê ở
Sơn La, diện tích 0,5-1 ha/vườn, cố định vườn điều tra. Mỗi vườn điều tra 10 điểm cố định,
điểm điều tra cách bờ ít nhất là 2 hàng cây, mỗi điểm là 1 cây, mỗi cây điều tra 4 hướng, mỗi
hướng điều tra 1 cành cố định ở tầng giữa tán cây, điều tra định kỳ 7 ngày/lần; đếm toàn bộ số
lá, quả ở cành điều tra; tính tỷ lệ và chỉ số (%) trên cành, lá, quả bị bệnh; phân cấp bệnh theo
thang cấp 9 (QCVN01-38:2010/BNNPTNT) [5]:
Cấp bệnh Đặc điểm nhận biết
1 < 1% diện tích cành, lá, quả bị bệnh
3 1-5% diện tích cành, lá, quả bị bệnh
5 >5-25% diện tích cành, lá, quả bị bệnh
7 >25-50% diện tích cành, lá, quả bị bệnh
9 >50% diện tích cành, lá, quả bị bệnh
2.1.2. Điều tra tỷ lệ quả bị rụng
Điều tra 3 vườn đại diện (0,5-1 ha), 10 điểm cố định/vườn theo đường chéo cách bờ 2
hàng cây, điều tra 4 hướng × mỗi hướng 1 cành quả/1 cây/điểm, định kỳ 1 tuần/lần
(QCVN01-38:2010/BNNPTNT). Điều tra lần đầu giai đoạn phát triển quả (6 tuần sau khi hoa
đợt cuối nở), đếm toàn bộ số quả trên cành; đếm số quả khỏe, số quả bị bệnh, số quả bị bệnh
mới ở mỗi lần điều tra và đeo một thẻ nhỏ cho mỗi quả để tránh nhầm lẫn khi đếm ở lần điều
tra sau [1].
* Chỉ số theo dõi (Bedimo et al., 2007):
- Tỷ lệ số quả bị rụng:
37
1−( ...